Wednesday, December 30, 2009

Thời sự

Umar Farouk Abdulmutallab (bên phải), người Nigeria, chụp chung với các bạn cùng theo học trường quốc tế của người Anh tại Togo, chụp nhân chuyên du lịch sang Luân Đôn năm 2001. Tám năm sau, ngày 24 tháng 12 2009 anh ta theo tường trình tính cho nổ bom một chiếc máy bay trên thành phố Detroit chở gần 300 người. (Hình BBC)

Thời sự

Vào những ngày gần đầu năm người ta nhớ đến hơn 200.000 người đã thiệt mạng cách đây 5 năm do đợt sóng thần trên Ấn Đô Dương ập vào ven biển các nước Nam Á, trong đó có Thái Lan. Hình trên là bãi biển Patong, Thái Lan, nước có hơn 5000 nạn nhân của trận sóng thần này, nay đã trở lại sinh hoạt bình thường. (BBC)

Thêm một nhà báo không còn nữa

Ông Trần Tam Tiệp từ trần tại Paris

PARIS (VB)- Nhà báo gốc không quân VNCH Trần Tam Tiệp không còn nữa. Antoine Tramond Trần Tam Tiệp đã tạ thế vào lúc 18 giờ ngày 23 tháng 12 năm 2009, tại Clinique Geoffory Saint Hilaire, 59 rue geoffroy Saint Hilaire, 75005 Paris, hưởng thọ 81 tuổi. Tang lễ sẽ được cử hành ngày 5 tháng 1, 2010 tại nghĩa trang Pere Lachaise, 75018 Paris.

Trần Tam Tiệp Antoine Tramond sinh ngày 11-11 -1928, tốt nghiệp khoá 2 trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, tu nghiệp sĩ quan phi hành tại Pháp, là một sĩ quan được quý trọng của Không Quân VNCH. Trước 1975, với cấp bậc Trung Tá và bút hiệu Đạo Cù, ông là một trong những chủ biên tập san Lý Tưởng của Không Quân và là người viết quen thuộc của báo giới Việt Nam.

Sau Tháng Tư 1975, Trần Tam Tiệp cùng với một số nhà văn định cư tại Pháp như Minh Đức Hoài Trinh, Nguyên Sa Trần Bích Lan, Trần Thanh Hiệp... nhanh chóng thành lập Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại, liên lạc cộng tác và được Văn Bút Quốc Tế chính thức nhìn nhận, liên tục cho tới ngày nay.

Trần Tam Tiệp được Chủ Tịch Văn Bút Thế Giới thời ấy là Thomas Von Vegesack đặc biệt quý trọng vì những cống hiến không mệt mỏi của ông trong việc kêu gọi quốc tế tranh đấu bảo vệ các nhà văn miền Nam bị cộng sản bắt giam không xét xử.

Chính nhờ sự vận động bền bỉ của Trần Tam Tiệp, tổ chức "The International PEN Writers in Prison Committee (WiPC) đã dành cho các nhà văn, nhà báo Việt Nam bị CS cầm tù nhiều trợ giúp ý nghĩa hoặc can thiệp bảo trợ.

Ông Đỗ Việt, cựu Trung Tá Giám Đốc Truyền Hình Việt Nam, bạn thân của nhà báo Trần Tam Tiệp tại Paris cho hay sinh thời ông Tiệp sống rất cần kiệm, vừa dạy học ban ngày, vừa làm gác dan ban đêm, nuôi con ăn học thành tài và thường bỏ tiền túi giúp đỡ bè bạn. Ông Việt nói, "Ít ai biết là chính Trần Tam Tiệp là người từng lặng lẽ chuyển tiền về đắp mộ cho anh em cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm - Ngô Đình Nhu."

Năm 1994, trong một tai nạn, Trần Tam Tiệp bị chấn thương não, sau đó, sức khoẻ suy yếu dần. Nhiều năm qua ông phải di chuyển trong nhà bằng xe lăn. Hội Không quân VN tại Pháp và bằng hữu khắp nơi khi ghé Paris thường thăm viếng ông. Trần Tam Tiệp ra đi môt ngày trước đêm Giáng Sinh, để lại nhiều tiếc thương. /.

Nguyễn-kim Khánh

(Ảnh 2008 do Đỗ Việt chụp)

Tuesday, December 29, 2009

Nghìn trùng!


Ấm Áp Tình Đồng Môn QGHC

Khóa 13 Cali ăn cưới và tiếp đón đồng môn từ xa

Sáng sớm thứ bảy, ngày 26 tháng 12 năm 2009, chúng tôi gồm có Lê Châu Lộc, Cung Trọng Bảo, Đặng Mạnh Hùng, Ngô Ngọc Trác , Cao Xuân Thức(tài xế) và Đặng Thị Hồng Hoa(lơ xe) khởi hành từ Orange County, California đi San Jose tham dự Lể Vu Quy của cháu Từ Thị Ngọc Nga, thứ nử của Ông Bà Từ Minh Chánh.

Những câu chuyện vui buốn xa xưa cũng như hiện tại đựọc chia sẻ rất hào hứng làm chúng tôi quên đi lộ trình xa vời vợi với núi rừng trùng điệp , với đèo cao hố thẳm; cuối cùng chúng tôi đã tới tư gia bạn Từ minh Chánh vẫn còn kịp tham dự Lễ Gia Tiên.

Hình trên. Ngồi : Chánh, Bảo, Hùng ,Lộc. Đứng : Trác, Thức.
Trên tường : tên cô dâu Từ thị Ngọc Nga & chú rể Nguyễn Ngọc Hải.


Bàn Thờ Tổ Tiên uy nghiêm với nhan đèn hoa qủa và một con heo quay vàng ươm. Ông bà mình thường nói: “Ăn qủa nhớ kẻ trồng cây” hay “ Uống nước phải nhớ nguồn “. Trong ý nghĩa đó , Lễ Gia Tiên là một nghi thức truyền thống không thể thiếu sót trong bất kỳ Lể Vu Quy & Lễ Thành Hôn nào theo tập tục của nền văn hóa Việt Nam.

Sau đó, gia chủ khoản đải buổi tiệc mừng bỏ túi để đợi buổi tiệc lớn tại nhà hàng Dynasty. Nói là bỏ túi nhưng cũng có heo quay, bánh hỏi, rượu mạnh, có thức ăn chay…


Đến tối, tại nhà hàng Dynasty , một nhà hàng sang trọng của thung lũng hoa vàng, Cô Dâu Chú Rể luôn tươi cười trong trang phục lộng lẫy của ngày cưới, tay trong tay tiến lên sân khấu cùng với song thân là Ông Bà Từ Minh Chánh và đại diện của chú rể. Sau nghi thức chào mừng quan khách, thân nhân, bạn hữu; buổi tiệcvui mừng ngày lễ Vu Quy và Thành Hôn đã diển tiến rất nhịp nhàng, vui vẻ, và hào hứng với nhửng bản nhạc ngày cưới, xổ số lấy hên, và khiêu vủ…

Cô dâu & Chú rể cắt bánh cưới và tay trong tay đôi uyên ương uống ly rượu mừng…mọi người nâng ly chúc mừng…tiếng vổ tay, tiếng nói cười , lời chúc tụng hạnh phúc…từ bàn tiệc nầy qua bàn tiệc khác lúc chào bàn…thật vui và thật hân hoan phơi phới…

Hình chụp phía ngoài nhà hàng Vũng Tàu.
Từ trái : Trác, Chánh,Thức, Thiện, Phương, Bảo, Lộc, An, Long, và Hùng.

Ông Phó Tỉnh Kiến Tường, Đặng Minh Đức, có tham dự ngày vui tại nhà hàng Dynasty tối 26 /12/2009; nhưng không thể đến tham dự điểm tâm với anh em vì qúa bận công vụ. Sáng sớm chủ nhật, ngày 27 tháng 12 năm 2009, anh em khóa 13 San Jose, chiêu đải phái đoàn Nam California tại nhà hàng Vũng Tàu góc đường Santa Clara và đường 12.

Đây là dịp vàng ngọc để anh em hàn huyên tâm sự…chuyện trên trời dưới đất, chuyện từ đông sang tây… tình đồng môn, tình đồng khóa là đây !!! Sao người viết cảm nhận một điều gì thiêng liêng, vô hình nhưng gắn chặt ; một điều gì tưởng như hư hư thực thực , như một giấc mơ giữa ban ngày…nhìn nét mặt bạn bè với nhiều vết nhăn trên trán , nhưng ánh mắt vẫn tinh anh và thật thân thương làm sao ấy…nhiều và nhiều lắm…(Hình chụp phía trong nhà hàng Vũng Tàu…)

Từng ngần ấy cảm xúc, những mỏi mệt trên đường đi biến đâu mất dành chổ cho tâm tư tràn ngập niềm hạnh phúc trở về với qúa khứ, trở về với nét hồn nhiên thủơ sinh viên…

Cao Xuân Thức

Sunday, December 27, 2009

Nghĩ về một trường hợp giác ngộ

Đàn cá trong ao Bác Hồ

những chó của Pavlov
- Mẹ kiếp! Nhốt người ta lại, bưng tai, bịt mắt, chỉ mở cho nhìn, cho nghe những gì mình muốn áp đặt, cùng với sự đe doạ mạng sống thường trực – rồi bảo “dân trí thấp”, “dân tộc chưa trưởng thành”. Nói thế có khác gì trói chân, buộc tay thằng bé, cho ăn uống nhỏ giọt, cách ly với sông nước, rồi phán nó chậm lớn, không có khả năng biết bơi. Đểu giả, mất dạy cỡ này là cùng!

- Quy trình tiến hoá bình thường của tôi được tái hiện, từ “con cá của Bác Hồ”, “con chó của Pavlov” lên làm người.
Kể về bản thân là chuyện nên kỵ. Nói về cái dở thì không sao, nhưng nói cái hay, dễ bị coi là khoe mẽ. Vì thế, tôi thỉnh cầu trước một sự châm chước.

Tôi có ý định lấy chính mình làm điểm xuất phát để bàn về một chuyện khác. Về những cay đắng của một con người. Như một ví dụ. Chẳng phải để dạy dỗ ai (làm gì dám cho mình ghê thế!). Cũng chẳng khoác cái áo “dân chủ, nhân quyền” gì ráo trọi. Càng không nhân danh trí thức. Đơn giản chỉ là những nghĩ suy. Một kinh nghiệm.

Khi mới ở tuổi lên mười tôi đã đạt danh hiệu “Cháu ngoan Bác Hồ”. Năm 1967 tôi được Hồ Chí Minh trao phần thưởng cho kết quả học tập xuất sắc với tất cả 14 môn học đạt điểm cao nhất. Đấy là một cuốn sổ tay kích thước khoảng 20 x 15cm, giấy trắng tinh, bìa cứng láng bóng, màu xanh dương, có in hình Hồ Chí Minh chụp thẳng và dòng chữ phía dưới: “Giải thưởng của Hồ Chủ Tịch”. Với tôi, gia đình, trường học và chính quyền địa phương, giải thưởng này là một vinh dự, vì không phải tỉnh, thành phố nào cũng có thưởng, và nếu có thì chỉ có một hoặc hai người. Buổi trao giải thưởng được tổ chức hào hứng trên sân kho của hợp tác xã, dưới ánh trăng (vì lúc bấy giờ máy bay Mỹ đánh phá miền Bắc dữ dội, học sinh đi sơ tán ở thôn quê, ban đêm không dám nổi lửa, thắp đèn). Bà con làng xóm tụ hội rất đông. Ba tôi cảm động đến phát khóc. Tôi nâng niu cuốn sổ tay đến mức không dám xài, lâu lâu lấy ra ngắm nghía! Tuy nhiên cũng chưa tức cười thảm hại bằng thằng bạn. Năm 1968, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn thăm trường, tặng cho mỗi đứa được cử đi gặp một cục kẹo Hải Châu (thứ cao cấp, hiếm hoi, xa xỉ với lũ học sinh nghèo trong những ngày chiến tranh). Thằng bạn thèm rỏ dãi nhưng trân trọng quá, không dám ăn, để dành làm kỷ niệm. Trời nóng, chỉ vài hôm cục kẹo chảy nhão nhoẹt dính bê bết với giấy bọc, phải vứt đi. Hắn đi Đông Đức, về nước giảng dạy ở Bách khoa Hà Nội, cho đến giờ. Tôi tin chắc hắn không quên chuyện này!

Tôi sang Ba Lan năm 1969. Cả đoàn du học sinh chúng tôi phải vào nằm viện để bác sĩ khám, tẩy giun sán trước khi được sống chung với người ta tại Trung tâm học tiếng Ba Lan dành cho người nước ngoài. Trong bệnh viện, được báo tin Hồ Chí Minh từ trần, chúng tôi khóc thảm thiết! Mấy cô y tá Ba Lan ngơ ngác, lúng túng chẳng biết chuyện gì xảy ra! Chúng tôi đã yêu Đảng, yêu Bác Hồ đến thế! Đã một thời ngây thơ, ngây ngô như thế!

Đến năm 1994, Kim Nhật Thành chết, xem TV thấy dân Bắc Triều Tiên đứng đông nghẹt hai bên đường ôm nhau gào khóc. Lúc này thì tôi đã bật cười! Cười cả chính mình! Tôi cũng đã y chang vậy ngày nào, bị ngu hoá, bị lừa gạt mà không biết.

Phải thừa nhận các chế độ cộng sản đạt mức siêu đẳng về chuyện nuôi trồng con người theo ý đồ của mình.

Thế hệ tôi và cả xã hội miền Bắc, mỗi một con người được nhào nặn, rèn luyện, nhồi nhét tư tưởng vào trí não, để không còn là mình nữa, chỉ biết suy nghĩ và hành động theo những lời dạy dỗ của Đảng và Bác, đi theo con đường mà Bác và Đảng vạch ra, như con rối, như cái máy. Cái bóng Đảng, Bác bao trùm lên đời sống.

Phản ứng của chúng tôi chẳng khác gì những con cá trong ao của ông Hồ ở Phủ Chủ Tịch. Không hơn, không kém.

Vào năm 1958, theo yêu cầu của ông Hồ, kiến trúc sư Nguyễn Văn Ninh đã thiết kế cho ông ngôi nhà sàn theo kiểu của người miền núi, cùng với vườn cây, ao cá. Ngôi nhà sàn có hai tầng, tầng trên ông Hồ dùng làm phòng ngủ và phòng làm việc trong mùa đông, tầng dưới là nơi ông làm việc vào mùa hè, họp Bộ Chính trị. Ngôi nhà sàn xây dựng xong vào ngày 1/05/1958, bằng gỗ loại bình thường, chiểu theo căn dặn của ông – báo chí viết như thế.

Tuy nhiên, trong thực tế, mãi sau này tôi mới biết, gỗ được sử dụng để làm ngôi nhà sàn “giản dị” thuộc loại tốt. Ngoài ra, sự giản dị này cũng đáng bàn. Bởi vì, ngôi nhà tọa lạc giữa phong cảnh hữu tình, đầy cây cỏ, hoa lá xanh tươi, chim bay, cá lượn bốn mùa. Bác ngồi thư giãn, hút thuốc lá 555 hay xì-gà của Fidel Castro gửi tặng thì còn gì bằng! Đấy là chưa nói đến chuyện có các nàng tới hầu hạ (như cô Nông Thị Xuân chẳng hạn)! Ngay giữa thủ đô chật hẹp, ồn ào, bụi bặm mà hưởng thụ một dinh cơ tao nhã, thanh bạch như vầy, thì khác gì cuộc sống của Tiên ông dưới trần, quả là chưa có tiền lệ.

Vào thời buổi kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, lắm đại gia tư bản đỏ chơi độc theo gương ông Hồ, cũng xây những dinh thự to rầm theo kiểu nhà sàn bằng toàn gỗ quý, vườn tược được trồng nhiều loại cây kiểng mà một chậu trị giá hàng chục ngàn đôla. Cũng ngay trong lòng Hà Nội. Hồi nhỏ tôi được nghe nhiều huyền thoại về ông Hồ. Với chúng tôi, tên Hồ Chí Minh đồng nghĩa với đấng siêu nhân, thánh thiện và lòng tôn kính. Ở Nghệ An, có bài đồng giao xem ông Hồ, Tướng Giáp sinh ra như là tất yếu của Trời Đất: “Đụn Sơn phân dái / Hòn Đái thất thanh / Nam Đàn sinh Thánh / Đông Thành sinh Tướng”…

Mỗi lần nghe ai kể về đời sống của Bác, nói đến đàn cá trong ao của Bác, lũ trẻ chúng tôi xuýt xoa, phục lăn. Số là đàn cá đông đúc được ông Hồ luyện công phu. Sau một thời gian nhử mồi cám dỗ, ông đã thành công. Khi cho cá ăn, ông chỉ cầm cái que gõ gõ vào cái hộp đựng mồi hay thành bờ ao gì đó là cả đàn lúc nhúc bơi lại.


Lên cấp 2, bắt đầu học vật lý, tôi không còn phục cao kiến luyện cá của ông Hồ nữa, mà chỉ phục ông ở tính kiên nhẫn. Tôi cúc cục mãi mới tập gọi được đàn gà. Còn dạy cá đâu phải giỡn! Té ra ông Hồ chỉ thực hành lý thuyết từ xửa xưa của nhà khoa học người Nga Ivan Pavlov, Giải thưởng Nobel Y học năm 1904. Ivan Pavlov nổi danh từ việc thí nghiệm phản ứng tiêu hoá trên cơ thể chó. Qua nghiên cứu sinh lý học của nước bọt, ông khẳng định rằng, nước bọt không chỉ tiết ra lúc ăn, mà cả trong phản ứng trước bữa ăn. Thức ăn gây chảy nước bọt được gọi là “kích thích ban đầu”, còn tiếng chuông gõ hoặc ánh sáng của cái đèn xuất hiện trước bữa ăn, gọi là loại “thức ăn phụ trợ”. Kích thích chó liên tục một thời gian dài bằng “thức ăn phụ trợ”, cùng lúc với “kích thích ban đầu” để tạo thói quen, ông đã làm chó tiết nước bọt chỉ còn qua sự kích thích thứ cấp. Hiện tượng này được gọi là phản xạ có điều kiện của Pavlov, trái ngược với sự chảy nước bọt bẩm sinh, là phản xạ vô điều kiện. Thì ra, những con cá của ông Hồ chỉ là một phiên bản nhỏ từ con chó của Pavlov.

Phiên bản lớn mới thật hãi hùng.

Người ta nói Việt Nam là một nhà tù lớn, hay cả quốc gia đang bị nhốt trong cái cũi. Trong cái cũi này, giống như đàn cá trong ao, ông Hồ và Đảng Cộng sản Việt Nam đã áp dụng muôn vàn “thức ăn phụ trợ” để “trồng người” vì “hạnh phúc trăm năm” của… Đảng.

Bằng quản lý trong tay sổ hộ khẩu, sổ gạo, sổ dầu, phiếu thực phẩm, phiếu vải, học đại học; nay thêm sổ đỏ, chứng minh nhân dân, hộ chiếu, giấy chủ quyền xe, v.v… – ông Hồ và Đảng từ lúc cầm quyền đến nay đã biến đất nước thành một phòng thực nghiệm vĩ đại của “phản xạ có điều kiện”, biến dân tộc thành một bầy đàn ngoan ngoãn. Hàng chục triệu người Việt đã, đang và tiếp tục trở thành những con cá trong ao hay là những con chó của Pavlov.

Ngoài ra, còn một “thức ăn phụ trợ” khác công hiệu. Đó là bộ máy tuyên truyền khổng lồ, chằng chịt từ trung ương xuống thôn xã, bản làng, liên tục đập vào não trạng con người ngay từ thưở thiếu thời. Bất kỳ nguồn thông tin nào bất lợi cho sự độc quyền cai trị của Đảng đều bị ngăn chặn. Những mầm mống phản kháng ngay lập tức bị đè bẹp, đời sống của gia đình, người thân bị phong toả đến bần cùng…

Cho nên, lúc còn là học sinh, tay còn vương mực tím, khi ông Hồ chết, tôi và các bạn tôi cùng thời đã chảy dài nước mắt, cũng không có gì là lạ. Đúng ra, chúng tôi nên được chia sẻ, được thương hại, tội nghiệp.


Nhưng nhờ Trời, ngay trong năm thứ nhất học đại học tôi đã nhanh chóng nhận ra lẽ thường phải có ở đời, sự bất công và bất nhân của chế độ cộng sản. Nó tước đi của con người đời sống riêng tư, cá tính và những quyền tự do tối thiểu nhất. Chúng tôi bị Toà đại sứ Việt Nam tại Ba Lan cấm không được yêu đương, không được mặc quần jeans ra ngoài đường, không được khiêu vũ, không được đến thăm nhà người bản xứ, không được đi lao động kiếm thêm tiền trong dịp nghỉ Hè, v.v… Một ngàn lẻ một thứ cấm! Hàng tuần họp chi đoàn, viết bản tự kiểm. Lơ mơ là bị trục xuất về nước!

Và tôi lơ mơ, xé rào nên bị trục xuất thật. Vừa đặt chân tới ga xe lửa Hàng Cỏ, Hà Nội, chưa kịp xuống tàu, hai công an đã xông lên chỗ ngồi và áp tải tôi vào trại giam, sau đó lãnh án tù hai năm về tội yêu và trốn ở lại nước ngoài. Ra tù, lận đận mãi tôi mới xoay được việc làm và quay lại Ba Lan năm 1989, đúng lúc chế độ cộng sản Ba Lan sụp đổ. Làm nhân chứng của 20 năm xây dựng thể chế dân chủ ở Ba Lan với muôn vàn khó khăn nhưng thành quả phát triển giành được thấy rõ qua từng năm tháng, nhãn quan chính trị của tôi thay đổi hoàn toàn. Tôi được tỉnh ngộ qua liệu pháp điện áp của thực tế một xã hội từ chế độ cộng sản chuyển sang dân chủ tự do, cho mình cơ hội nhìn nhận, phân biệt Ác và Thiện. Quy trình tiến hoá bình thường của tôi được tái hiện, từ “con cá của Bác Hồ”, “con chó của Pavlov” lên làm người. Tôi lột xác cùng với những thăng trầm của tiến trình dân chủ hoá ở Ba Lan và Đông Âu.

Ba Lan tự do đã đưa sự thật lịch sử ra ánh sáng và công lý. Quá khứ đã chứng minh không thể chối cãi rằng, chế độ cộng sản tồn tại thực chất nhờ dối trá và bạo lực. Những người cộng sản không thèm nghe ai khi thấy phương hại đến độc quyền lãnh đạo của họ, cho dù những lời khuyên đó có mang lại lợi ích cho đất nước đến đâu. Chỉ khi bị áp lực tranh đấu mạnh mẽ của quần chúng, bị thất bại, bị dồn vào thế cùng họ mới làm ra vẻ hướng thiện hoặc nhượng bộ. Nhưng khi có sức mạnh và nhất là lúc thành công, họ tự mãn, cao ngạo, và độc ác gấp bội. Bản chất lưu manh, cướp giật của họ, theo thời gian càng ngày càng lộ liễu. Họ biến thù thành bạn, biến bạn thành thù tuỳ theo tình huống có lợi cho sự bảo đảm quyền lực. Họ là bậc thầy của sự tráo trở, lật lọng và bội bạc. Quan điểm phải hợp tác với cộng sản để cải tạo cộng sản, có cách nói cho cộng sản nghe, đã chứng tỏ tính chất xuẩn ngốc của nó qua hậu quả việc làm của rất nhiều người từ hàng chục năm nay. Chưa có vị “quân sư” nào làm cộng sản thay đổi được bản chất, ngược lại, họ thường bị phản phé, ngược đãi và chịu chung một bi kịch giống nhau. Rốt cuộc họ chỉ là những kẻ bị phấn khích hoặc có tâm thức bất bình thường, thích đi theo vết xe đổ.

Thiếu tự do và thông tin với bên ngoài, con người không thể nào có đủ kiến thức để nhìn nhận, so sánh các mô hình sinh hoạt xã hội khác, cho nên đại bộ phận người Việt trong chế độ cộng sản, nhất là nông dân, cứ tưởng rằng, cái ao, cái cũi mà trong đó mình đang được Đảng ban phát là “đỉnh cao chói lọi” rồi. Mẹ kiếp! Nhốt người ta lại, bưng tai, bịt mắt, chỉ mở cho nhìn, cho nghe những gì mình muốn áp đặt, cùng với sự đe doạ mạng sống thường trực – rồi bảo “dân trí thấp”, “dân tộc chưa trưởng thành”. Nói thế có khác gì trói chân, buộc tay thằng bé, cho ăn uống nhỏ giọt, cách ly với sông nước, rồi phán nó chậm lớn, không có khả năng biết bơi. Đểu giả, mất dạy cỡ này là cùng!

Vậy mà, lạ lùng thay, có những người không sinh ra trong chế độ ấy, đầu đã hai thứ tóc, mà giờ đây bắt đầu muốn yêu Bác Hồ như thế hệ chúng tôi mấy chục năm trước đây!

Lạ lùng nữa, vì những người ấy đã tháo thân chạy khỏi chế độ cộng sản và được lớn lên, ăn học, trở thành kỹ sư, giáo sư, tiến sĩ ở các quốc gia dân chủ, tự do.
Lạ lùng hơn, vì những người ấy, được gọi là trí thức, không thể không biết đến tội ác mà chủ nghĩa cộng sản toàn trị đã gây ra cho nhân loại nói chung và đối với dân tộc Việt Nam nói riêng trong suốt gần một thế kỷ.

Lạ lùng đến kinh ngạc, vì những bi kịch Cải cách Ruộng đất, Nhân Văn Giai Phẩm, vụ Xét lại Chống Đảng, Thảm sát Tết Mậu Thân Huế 1968, Cải tạo Tư bản, Tư thương miền Nam sau 1975, Chiến dịch bán bãi thu vàng, các vụ án Minh Phụng-Epco, Năm Cam, PMU 18, PCI, vân vân và vân vân… – chẳng mang đến cho họ một chút ý thức gì về dã tâm khủng khiếp và ghê tởm của lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam.

Không biết bị ám bởi phản xạ có điều kiện nào qua “thức ăn phụ trợ” của thời “đổi mới”, “tăng trưởng”, “phát triển”, “vươn ra biển lớn”, mà giữa lòng Hà Nội xuất hiện một sự đảo ngược tiến trình tiến hoá của loài người. Cả ngàn con người đang no cơm ấm cật, xiêm áo chỉnh tề, bỗng dưng biến thành đàn cá Bác Hồ, bầy chó của Pavlov, “hân hoan”, “hồn nhiên” hát bài “Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng”. Và rồi sau khi kết thúc thắng lợi ra về, cùng nhau đồng ca điệp khúc: “dân trí Việt Nam còn thấp”, “dân tộc ta chưa trưởng thành” nên chưa thể vươn tới tiến trình dân chủ hoá.

Bệnh này coi bộ hết phương cứu chữa!

Warsaw, Ba Lan 20/12/2009
Lê Diễn Đức
***
Nguồn: Ledienduc's Blog
Xin mời quý anh chị và thân hữu ghé trang web để đọc thêm nhiều bài rất hay. Cám ơn anh Nguyễn Vĩnh Thượng đã giới thiệu trang web này.

ĐS14 Nam Cali

họp mặt cuối năm tại nhà anh chị Nguyễn Đức Tín

Ngồi: CM Tâm (solo) và Bốn quý phu nhân
Đứng, từ trái: Trình, Lợi, Xuân, Vinh, Quế, Tín, Ninh, Danh
**
Click to enlarge
Hình: Lê Quang Trình


Saturday, December 26, 2009

Tin giật gân cuối năm

Phát giác và ngăn chận kịp

một vụ nổ bom máy bay

Hành khách và phi hành đoàn trên chuyến bay đã áp đảo một người đàn ông 23 tuổi là người toan châm ngòi cho nổ bom chiếc máy bay từ Amsterdam, Hòa Lan, đến Detroit, Hoa Kỳ. Chuyến bay chở 278 hành khách.


Người hành khách tên là Jasper Schuringa (Hình bên) ngồi đối diện với nghi can nói: "Đột nhiên một tiếng động phát ra rồi có khói và lửa. Tôi nghĩ ngay đây là khủng bố... Tôi không do dự một giây chỉ biết rằng phải ngăn chận ngay bằng mọi cách."

Cơ quan chống khủng bố Hòa Lan cho hay nghi can đáp chuyến bay KLM cất cánh từ Lagos, Nigeria, đi Amsterdam, rồi chuyển tiếp sang chuyến bay NorthWest Airlines đi Detroit. Nghi can mang chiếu khán Mỹ hợp lệ.

Cảnh sát Luân Đôn, Anh quốc, đang lục soát căn nhà, nói là nơi ở của nghi can.

Sau vụ này, an ninh phi trường trên thế giới lại cảnh tỉnh tăng cường các biện pháp sít sao hơn, đặc biệt tại Hoa Kỳ. Riêng tại Canada, hãng hàng không Air Canada đã thông báo: Hành khách đi Mỹ không được rời chỗ ngồi trong tiếng đồng hồ chót, mà cũng không được mở các ngăn chứa hành lý. (Lược dịch từ BBC)

Truyện vui

Người vợ đảm đang

Phạm Thành Châu


Ở hải ngoại, ông Việt Nam nào có phước lắm mới có được vợ Việt Nam. Người đàn bà Việt Nam là biểu tượng của người vợ hiền, đảm đang, chung thủy, tiết kiệm... là tấm gương sáng cho tất cả phụ nữ khắp thế giới noi theo. Vợ tôi lại là tấm gương sáng nhất trong các tấm gương sáng đó. Nói vậy để quí vị biết là tôi hạnh phúc, sung sướng đến cỡ nào! Nếu kể ra đây tất cả các đức tính cao quí của vợ tôi, sợ quí vị không có thì giờ đọc, nên tôi xin đơn cử một đức tính mà bà Việt Nam nào cũng có, đó là tính tiết kiệm.

Nhưng tiết kiệm là gì?

Là đọc báo mà thấy chợ nào có bất cứ món gì "xeo" (on sale: giảm giá) là chạy đi mua ngay (kẻo hết). Có những ngày chủ nhật, vợ tôi kêu tôi dậy từ sáng sớm, đi giáp vòng các chợ có hàng "xeo", đến chiều thì vừa đầy chiếc xe van. Tôi phải vác vào, chất đầy nhà, đến độ muốn vào nhà, tôi phải leo qua những bao gạo hiệu con voi, con cá, con chuột..., leo qua những thùng nước mắm hiệu một con cá, hai con cua, năm con bạch tuộtc..bò qua những thùng dầu bắp, dầu đậu nành, những thùng mì gói, bột, đậu, đường, rồi khăn tắm, khăn trải giường, đồ chùi xoong nồi, kem đánh răng...(dĩ nhiên tất cả đều quá hạn: expired date). Xin quí vị tưởng tượng đến một cái kho tích trữ đồ cứu trợ bão lụt miền Trung chất tùm lum, vất bừa bãi khắp nơi là biết ngay. Nhưng không phải đầy nhà rồi thì ngưng đi mua "xeo" đâu. Vẫn tiếp tục. Vợ tôi giải thích cho tôi biết "Một bao gạo tiết kiệm được một đô. Một trăm bao, tiết kiệm được bao nhiêu? Ông tính đi!" Tôi làm bộ kinh ngạc "Một trăm đô! Tôi đâu có ngờ. Tưởng chỉ một đô, mà thành trăm đô. Bà coi báo, xem còn chợ nào "xeo" thì nên mua về, để dành. Kinh tế suy thoái, tiết kiệm được đồng nào quí đồng đó" Vợ tôi khoái lắm nhưng làm vẻ nghiêm trang "Ông thử đi mượn một đô xem có ai cho mượn không? Phải tiết kiệm từng đồng, để khi cần thì có mà đem ra xài"

Chuyện các báo đăng hàng "xeo" thì vợ tôi rành lắm, chợ nào, xa cách mấy vợ tôi cũng biết rõ đường đi lối về (để chỉ đường cho tôi), trừ những chợ mới khai trương, vợ tôi không biết đường, phải hỏi các bà bạn. Với tôi, muốn đến đâu, giở bản đồ ra là biết hết, nhưng tôi đâu có dại. Có biết, tôi cũng lắc đầu, để khỏi chở bả đi, hơn nữa, phải để bả hỏi bạn bè rồi bả chỉ đường, bả mới lên mặt được! Thương vợ thì phải làm sao cho vợ lúc nào cũng giỏi hơn mình, thông thái hơn mình.

Sau đây là một chuyện điển hình về một buổi đi chợ mua hàng "xeo" của vợ tôi. Tôi kể trên báo nầy cho quí vị nghe mà không sợ bị vợ đánh đập vì vợ tôi, hễ cầm đến tờ báo là tìm mấy trang quảng cáo có hàng "xeo", cắt cúp bon (coupon: phiếu giảm giá) để dành, ngoài mục hàng "xeo", báo có đăng tin trời sụp bả cũng không "ke" (care: quan tâm đến).

Tiểu bang Virginia, nơi tôi ở, nếu kể cả các vùng phụ cận như thủ đô Washington DC, tiểu bang Maryland thì có khoảng bốn chục nghìn người Việt nhưng không biết cơ man nào là chợ Á Đông, là những chợ bán đủ thứ, kể cả những món mà chợ Mỹ không có như mắm ruốc, mắm bồ hóc (brohoc), mắm nêm...là những thứ mà mở ra thì người Mỹ bỏ chạy, tưởng là bom bẩn của bọn khủng bố. Kể ra, có một chợ Á Đông gần nhà cũng tiện, cần gì, chỉ lái xe đi mươi phút là có ngay. Nói là "chợ" nhưng sự thực là một tiệm chạp phô lớn, kiểu siêu thị nhỏ ở Việt Nam, do một gia đình, thường là người Tàu Chợ Lớn, đứng ra kinh doanh. Khoảng mấy năm trở lại đây, thấy dễ ăn, người Tàu (Đài Loan, Trung Cộng), người Đại Hàn (Nam Hàn) nhảy ra lập công ty, mở những chợ đồ sộ, gì cũng có, giá rất rẻ để thu hút khách hàng và để "lấy thịt đè người", cố giết chết những tiệm chạp phô của người Á Đông. Quả nhiên, các tiệm chạp phô nầy chết dần, như cây thiếu nước, héo tàn, sống lây lất hoặc dẹp tiệm.

Hiện nay thì chợ Đại Hàn bành trướng khắp nơi, thu hút chẳng những khách Á Châu như Lào, Thái, Miên và cả người Ấn Độ, Phi Châu, Nam Mỹ vì giá rẻ hơn các chợ Mỹ, tuy chất lượng hàng hóa thường quá tệ. Nhưng những di dân, rất dễ tính, miễn rẻ là được.

Nói chuyện đi chợ xứ Mỹ nầy thì bà nào cũng giống nhau. Quí bà sai quí ông đi chợ về là bị quí bà đem cái rì xít (receipt: phiếu tính tiền) ra đọc, nếu thấy bị ăn gian thì đay nghiến cả tháng trời, vì các ông mua gì cũng không bao giờ nhìn đến cái rì cít. Với các bà thì đừng hòng. Bà nào vào chợ, bốc món nào bỏ vô xe đẩy là nhớ cái giá như gõ vào máy tính trong đầu. Đi một vòng, ra chỗ trả tiền, các bà đã tính nhẩm ra ngay tổng số tiền phải trả. Khi người ta chọt giá món hàng vào máy tính tiền là các bà đứng nhìn không rời mắt, thấy khác lạ là chận lại ngay, đừng hòng ăn gian. Chưa xong đâu, đi chợ về, các bà còn lục mấy cái rì cít cũ ra để so sánh giá cả từng món hàng. Chợ nào bán mắc hơn, chỉ vài xen (cent: xu) là các bà nhảy nhỏm lên như bị kim châm vào mông, rồi gọi ngay đến bà bạn còm ròm và khuyến cáo "Chị Như Quỳnh đó hả? Em là Tuấn Vũ đây. Em mới đi chợ A. về. So lại mấy cái rì xít của các chợ khác mới lòi ra bị nó bán cắt họng. Chị nghĩ coi. Nó bán bó hành tới năm mươi xen trong khi chợ B. chỉ bán có bốn tám xen. Chị đừng đi chợ đó nữa nghe chị! Chủ nhật nầy chị có đi chợ C. không? Nghe chị Thái Hòa nói có bán trứng xeo, hai mươi xen một hộp. Em sẽ gọi chị đi chung cho vui, nếu em không đi được, chị mua giùm em hai chục hộp trứng nghe". Tôi không dám có ý kiến! Bả cấm cha con tôi ăn trứng vì nhiều cà rôn (cholesteron), lại đi mua trứng ung về làm gì không biết?

Một buổi sáng chủ nhật, tôi đang lơ tơ mơ trên giường thì vợ tôi cất giọng the thé "Đi chợ!". Tôi vùng dậy, chạy u vô phòng vệ sinh, đánh răng, rửa mặt, mặc quần áo, mang giày, lấy chìa khóa xe ra ngồi trên thềm nhà chờ vợ. Độ hai giờ sau, trang điểm xong, vợ tôi ỏng ẹo đi ra, tôi chạy ra xe, mở cửa cho người đẹp lên ngồi rồi mới lên xe mở máy, chờ lịnh vợ. Vợ tôi ra dấu ra đường, tôi cho xe chạy từ từ. Vợ tôi móc xeo phôn (cell phone: điện thoại cầm tay) "A lô! Chị Tuấn Ngọc đó hả? Em là Tuấn Vũ đây. (Tôi xin giải thích là "chị Tuấn Ngọc" không phải là ca sĩ Thái Thảo (vợ Tuấn Ngọc) và vợ tôi cũng không phải ca sĩ Tuấn Vũ. Hễ bà nào mê ca sĩ nào thì tự xưng (biệt hiệu) ca sĩ đó. Có dịp tôi sẽ kể về các bà "ca sĩ dỏm" nầy cho quí vị nghe). Dạ. Chị chỉ giùm em đường đến chợ Mạt Lo (Martlow). Chợ mới khai trương, em không biết đường. Ông xã em hả? Con gà rù chị ơi, làm sao biết đường! Đi đâu em cũng phải chỉ đường phát mệt. Em nghe chị Ngọc Hạ nói ở đó có "xeo" gạo Hoàng Gia, rẻ được năm mươi xen (cent), còn nước mắm, trứng nhiều thứ lắm. Phải không chị? Bây giờ chị chỉ đường cho em nghe! Dạ. Từ nhà em đi thẳng trên đường Men Rít (Main street), qua bảy cây đèn (vợ tôi ra dấu cho tôi tiếp tục chạy tới). Sao chị? Thấy Mắc đó nơ (McDonald) quẹo phải, năm cây đèn nữa, thấy Xe vờn i le vờn (tiệm Seven-Eleven) quẹo trái. Sao nữa chị? Rồi mười lăm cây đèn nữa thì thấy bảng Mạt Lo. Chị nói sao? Từ nhà chị đến đó chín mươi may (mile)? Nhà em gần nhà chị thì cũng khoảng đó. Hơi xa, nhưng không sao, bữa nay nghỉ làm, em đi tới chiều cũng không sao. Vì gia đình, vì chồng con, mình phải hi sinh, xoay xở, dè xẻn từng xen, vậy chớ mấy ông chồng đâu có hiểu, thấy vợ tiết kiệm thì mỉa mai. Ông xã chị cũng vậy hả? Đúng rồi! Chỉ biết cà phê cà pháo với nhau, nói chuyện tầm bậy, tầm bạ thì giỏi lắm nhưng về nhà thì vô dụng hết sức. Cám ơn chị. Ô mây ga! (Oh My God!: Trời đất!) Em chạy qua được mấy cây đèn rồi cũng không nhớ nữa! Dạ, bye chị!" Vợ tôi bỏ phôn vào xách tay, hỏi tôi "Ông đã biết đường chưa? Hay phải chờ tôi chỉ đường?" Tôi làm vẻ ngoan ngoãn "Bà nói chuyện, tôi phải chú ý nghe để nhớ đường chớ!" Bả nhìn tôi cười, vẻ kẻ cả "Tôi hỏi người ta cốt cho ông nghe để ông nhớ mà đi cho đúng đường" Tôi nói vậy cho bả không nghi ngờ chứ chợ nầy tôi đã đến nhiều lần rồi. Tôi còn biết đi đường tắt cho khỏi kẹt xe nữa. Đó là nhờ cô Trít (Trish Thùy Trang dỏm).

Cô Trít nầy là bạn vợ tôi, thỉnh thoảng các bà tụ tập đến nhà cô Trít để hát ca rô kê, tôi chở vợ tôi đến và làm khán giả. Là khán giả duy nhất nên hay dở gì cũng phải "xin một tràng pháo tay thật lớn". Quí vị tưởng tượng xem. Một buổi trình diễn văn nghệ, ca sĩ thì nhiều mà khán giả chỉ mình tôi nên nhiệm vụ của tôi thật nặng nề. Tôi vỗ tay đến độ phải đi bác sĩ để "băng bột", nhưng hễ thấy tay tôi vừa khỏi là tổ chức ca rô kê để tôi làm khán giả, lại "một tràng pháo tay thật lớn", lại đi bác sĩ! Nhưng tại sao chỉ mình tôi là khán giả? Chồng mấy bà kia đâu? Mấy ông kia khôn hơn tôi và có lẽ ít sợ vợ hơn tôi, nên chở vợ đến nhà cô Trít là vất vợ đấy, lái xe chạy mất tiêu. Tôi mà làm như thế thì có nước ngủ đường. Trường hợp cô Trít, tôi có âm mưu, nên khi cô hát, tôi vỗ tay hơi nhiều một chút, chỉ vài lần đặc biệt thôi là cô Trít hiểu liền, chờ vợ tôi quay đi là cô ta tặng riêng cho một nụ cười và một cái liếc mắt tình tứ, xiêu đình đổ quán. Khi cô đến, đưa bánh hay mời trà, bình thản hỏi chuyện gì đấy nhưng lại đụng chân vào đùi tôi. Xin thưa là cô nầy đẹp nhất trong các bà, người cao ráo, chân tay ngon lành, thân thể mát mẻ và đặc biệt là ở tuổi hồi xuân mà không có chồng. Thế nên mỗi khi chúng tôi, làm như vô tình, đụng chạm nhau thì tôi như bị điện giật, tê tái cả người. Chỉ cần tả chừng đó thôi cũng đủ cho quí ông thông cảm và quí bà (độc giả) biết ngay là sau đó chuyện gì sẽ xảy ra. Nhưng vợ tôi thì không biết. Chẳng ai biết! Vậy mới là chuyện hay! Nhưng tôi cũng xin thưa là tình cảm giữa tôi và cô Trít nầy hoàn toàn ngây thơ, trong trắng.

Mỗi thứ hai, tôi xin với xếp về sớm một giờ, ghé nhà cô Trít để vấn an cô và để góp ý với cô về cách ăn mặc, sao cho giống ca sĩ thần tượng (Trish Thùy Trang) của cô để chuẩn bị cho buổi ca rô kê sắp tới.

Buổi gặp gỡ diễn ra như sau. Cô mở cửa đón tôi, chúng tôi cúi chào như mấy người Nhật đóng phim (nhưng cô mặc đồ ngủ chứ không mặc Kimono) rồi cô bước lùi nhường lối cho tôi vào nhà, mời tôi ngồi xuống xa lông, đối diện với cô. Cô rót trà mời tôi. Chúng tôi uống trà và trò chuyện. Xong tuần trà, cô vào phòng (tôi vẫn ngồi yên, không theo cô vào phòng cô), thay trang phục giống như cô Trish Thùy Trang (thật) thường mặc khi trình diễn, đi ra, xoay người mấy vòng, tôi cho ý kiến. Dĩ nhiên tôi phải khen nức nở. Cô lại vô phòng, thay trang phục khác để tôi tiếp tục khen... Một giờ sau, tôi cáo từ. Chúng tôi lại cúi chào theo kiểu Nhật. Tôi bước lùi ra cửa. Lại cúi chào nhau lần nữa, rồi tôi lên xe. Đọc đến đây, quí bà sẽ lắc đầu còn quí ông thì xùng gan "Vừa thôi! Xạo vừa thôi. Cúi chào kiểu Nhật, khen áo quần đẹp, uống trà suốt một giờ rồi đứng lên ra về. Vậy ông đến làm gì?" Tôi đã thưa là tình yêu của chúng tôi thanh cao, trong trắng như thuở học trò mà!

Tôi có nói, tôi biết đường là nhờ cô Trít nầy, vì nhà cô gần chợ Mạt Lo và vì cô có thói quen, thỉnh thoảng, cô gọi điện thoại, bắt tôi đến nhà cô ngay tức thì, để đưa cô đi chợ! Tôi đang làm việc, lại xin phép xếp đi nửa giờ. Nhưng đến nơi, chúng tôi chỉ cúi chào nhau theo kiểu Nhật, ngồi (yên) uống trà độ nửa giờ rồi chia tay chứ không đi chợ. Bao giờ cũng thế. Sự thực ra, tôi có đưa cô Trít đi chợ Mạt Lo đó mấy lần (trong lúc vợ tôi còn ở sở làm) nên tôi biết rành chợ nầy lắm.

Xin trở lại chủ đề "tiết kiệm" của vợ tôi.

Tôi lái xe đến đúng chợ Mạt Lo nhưng làm bộ không thấy cái bảng hiệu nên cứ chạy thẳng để vợ khỏi nghi và để cho bả "ta đây" biết đường. Bả la lên "Yêu thơn! Yêu thơn! (U-turn)". Tôi làm như phục tài bả, ngoan ngoãn trở đầu xe. Xe vào sân chợ, vừa ngừng là vợ tôi phóc xuống, ra lịnh "Tôi một xe (xe đẩy). Ông một xe". Tôi hiểu ngay. Vì trong quảng cáo, có những món hàng "xeo" bị giới hạn số lượng cho mỗi khách hàng. Tôi mua riêng, vợ tôi mua riêng, như vậy sẽ mua được gấp đôi. Vợ tôi cầm tờ quảng cáo hàng "xeo" đi vào chợ, vừa đọc vừa dáo giác tìm. Tôi đẩy xe theo sau. Hễ bả bỏ vào xe đẩy của bả hai chai nước mắm hiệu con chuột thì bỏ vào xe tôi hai chai, xe bả năm thùng mì ăn liền hiệu con cóc thì xe tôi cũng có năm thùng, mười hộp trứng gà (ung!) thì tôi cũng có như thế...Đến chỗ bán gạo xeo, chúng tôi phải chờ. Một dọc, cả chục bà đang chờ đến lượt để hì hục vác gạo bỏ lên xe đẩy. Hầu hết là các bà Việt Nam. Bà nào cũng có một ông chồng với một xe đẩy riêng. Nếu dịp khác, các bà sẽ chào hỏi, chuyện trò rôm rả, nhưng lúc nầy thì tinh thần các bà rất căng thẳng, mắt đăm đăm nhìn đống gạo "xeo" đang vơi đi với tốc độ chóng mặt, khiến các bà cũng chóng mặt theo. Nếu ở Việt Nam, các bà đã xốc tới, huých người nầy, lấn người kia để đến gần đống gạo, nhưng vì ở Mỹ nên các bà đành hậm hực nhích từng bước, lòng lo lắng, không biết đến lượt mình có còn gạo không? May sao, đến lượt chúng tôi, gạo vẫn còn nhiều. Chúng tôi đẩy xe ra quày tính tiền. Biết tôi vô sản, vợ tôi lén nhét cho tôi tờ trăm đô và dặn nhỏ, không cho cô tính tiền nghe, sợ bị làm khó dễ "Mua xong, đưa lại tiền thối cho tôi".

Vì gạo mua "xeo" đó hiệu Hoàng Gia (Royal Rice) là gạo rất đặc biệt (theo như quảng cáo), rất quí hiếm nên vợ tôi nảy ra sáng kiến. Mua xong chúng tôi ra xe nhưng vợ tôi không cho tôi nổ máy xe. Ngồi một lúc, bả ra dấu, chúng tôi bước xuống, vào chợ lần nữa, mỗi người một chiếc xe đẩy, nhưng bả bảo phải đi cách xa ra để người ta không biết, tưởng mình là khách mới vào. Bả đi thẳng đến hàng gạo và chúng tôi sắp hàng nối đuôi với những người khác. Nhưng vừa đến lượt thì gạo hết. Vợ tôi nổi xùng, đến ban quản lý khiếu nại. Bả to tiếng bằng tiếng Anh, ban quản lý vì kém sinh ngữ, không biết bả nói gì nhưng hiểu ngay, vội đưa bả vào kho chứa gạo. Một cái kho mỗi bề ít ra cũng một trăm mét, chất thứ gạo Hoàng Gia đó tới nóc. Ông quản lý hỏi vợ tôi có cần thì ông ta cho xe tải chở đến nhà, mấy trăm bao cũng có, đã bán giá "xeo" lại được đít kao (discount: bớt giá) nữa. Vợ tôi cười hỉ hả, chỉ nhận có hai chục bao. Công nhân chất gạo vào sau xe cho chúng tôi. Bữa đó, chiếc xe van đời Bảo Đại của chúng tôi bị một phen quá tải. Nó xịt khói tùm lum, gầm rú như xe tăng, mà chạy như xe bò, nhưng cũng lết được về nhà. Tôi cũng bị một trận quá tải vì vác gạo vô nhà, muốn xỉu vì kiệt sức nhưng tôi vẫn vui vẻ vì đã giúp vợ thực hành tiết kiệm cho gia đình.

Về nhà vợ tôi đem cái rì xít ra tính toán và hí hửng bảo tôi "Rẻ được hai mươi đô". Tôi định nhắc bả nhớ là lái xe đi, về gần hai trăm miles, đổ hai lần xăng, mỗi lần bốn mươi đô, nhưng sợ bả giận, tôi làm thinh.

Vợ tôi bắt phải để thứ gạo Hoàng Gia đó vào một chỗ riêng. Tuần sau là đưa ông Táo về trời rồi nên vợ tôi gọi điện thoại đến các bà bạn, hỏi ai chưa mua được gạo Hoàng Gia thì bả tặng một bao "Ăn lấy thảo, tiền bạc chẳng bao nhiêu. Chị trả tiền em giận chị". Tôi có nhiệm vụ chở thứ gạo Hoàng Gia đó đến nhà quí bà. Các ông chồng của quí bà ra vác vào. Ông nào cũng ngoan ngoãn, hiền lành như tôi nhưng chúng tôi biết nhau quá rõ. Trông cù lần, con gà chết như thế chứ ông nào cũng thủ đắc vài con mèo để rảnh rỗi đi ngắm mèo giải sầu. Dĩ nhiên là những con mèo cô đơn kiểu như cô Trít của tôi. Tôi cũng nhân dịp vợ sai chở gạo Hoàng Gia tặng cô Trít, trên đường đi, tôi gọi cho vợ tôi báo là dọc đường có "tai nạn xe khủng khiếp quá, đường bị kẹt, cả giờ sau chưa chắc đã đi được!" Vậy là tôi đến "với" cô Trít cả giờ mà vợ tôi không nghi ngờ.

Chiều hăm ba tháng chạp âm lịch, là ngày đưa ông Táo về trời. Tôi đi làm về sớm. Vợ tôi gọi điện thoại, bảo mở bao gạo Hoàng Gia ra, nấu nồi cơm để bả về cúng đưa ông Táo.

Tôi mở bao gạo, lấy cái lon nhựa, đong ba lon vào nồi cơm điện như vợ dặn rồi bưng nồi đến vòi nước, mở nước để vo gạo. Nước vừa ngập gạo thì không biết đâu ra những con vật bé tí, nhỏ hơn hạt mè, đen thùi nổi lên, ngọ ngoạy, dính chùm nhau, đen kịt mặt nước. Ba lon gạo Hoàng Gia, e có đến một lon những con mọt đen đó. Tôi dùng tay gom được một nạm đầy mọt, bỏ thùng rác rồi quậy gạo, chúng lại nổi lên. Tôi mở nước, nghiêng nồi cho chúng trôi ra với nước. Làm vài chục lần thì chúng trôi ra gần hết. Tôi bưng nồi cơm để vào cái nồi lớn, đậy nắp, mở điện lên nấu. Bỗng thấy nhột ở cổ, tôi đưa tay lên gãi và vuốt. Trong tay tôi có mấy con mọt đen. Tôi đến chỗ bao gạo Hoàng Gia đã mở thì thấy chúng bò ra, bám đen cái bao ni lông trắng. Nhiều con cất cánh bay lên. Tôi nhìn lên tường. Bốn bức tường quanh nhà đen nghịt những sinh vật bé tí đó. Tôi lấy dao rạch tiếp mười mấy bao gạo Hoàng Gia còn lại, mở banh ra. Bao nào cũng đầy mọt đen. Chúng bò ra, bay lên, giống như ta đốt giấy, những tro giấy màu đen bay lên theo ngọn lửa.

Tôi ra hiên nhà ngồi gãi và bắt những con mọt đen đang bò lung tung trong áo, trên cổ, đặt chúng lên bàn tay, ngắm chúng để chờ vợ tôi về.
____
Nói leo: Chở bà xã đến nhà người ta tham dự hát Ca-rô-kê, rồi tự nguyện ngồi lại làm khán giả vô tay đến phải đi băng bó, anh chàng này chiều vợ là một lẽ, những để được xơ múi với cô Trít là chính đấy chứ! Phải vậy không quý vị? (A.C.La)

Friday, December 25, 2009

Tranh A.C.La




Mùa Tình Yêu
Oil on Canvas
by A.C.La



Nhân ngày Giáng Sinh


Tội phạm xã hội có quyền phát triển, tại sao tập thể chân tu không có quyền tồn tại? ... Triệt hạ TS Nhất Hạnh không cần phải triệt hạ những đứa con tinh thần như thế (Bát Nhã), vì đó là hạt giống tốt của xã hội. (H.Y Minh Mẫn)

Đêm giáng Sinh




Tin ngắn

Đức Giáo Hoàng bị bạo hành


Một người đàn bà đã nhẩy qua hàng rào cản xông tới chụp áo gần nơi cổ của đức Giáo Hoàng Bênêđictô khiến ngài bị té trong buổi lễ kỷ niệm Chúa giáng sinh đêm qua. Nhân viên an ninh tức tốc xáp lại kéo người đàn bà đi và vực đức Giáo Hoàng đứng dậy.

Về thế chất đức Giáo Hoàng không bị hề hấn gì những trong buổi cử hành lễ ngài đã lắp bắp nhiều chữ. Thánh lễ đã được cử hành sớm hơn dự liệu để tránh cho ngài bớt mệt mỏi, tuy rằng với tuổi xấp xỉ 83, ngài vẫn tương đối khỏe mạnh.

Vatican nói rằng người đàn bà bị bệnh tâm thần và cũng chính là người đúng dịp Giáng Sinh năm ngoái tính vượt rào cản để tới gần đức Giáo Hoàng.
**
Bão tuyết miền trung Hoa Kỳ

Ít nhất có 18 người thiệt mạng vì cơn bão tuyết lan tràn vùng trung Hoa Kỳ. Đường xá bị tồi tệ, lưu thông gián đoạn.
**

Hạ cánh, máy bay gẫy đôi

Một chiếc máy bay hành khách của hàng không Air America vuột khỏi phi đạo khi đáp xuống phi trường tại Kingston, Jamaica, lúc trời mưa gió khiến khoảng 40 người bị thương. Chiếc máy bay bị gẫy đôi.

**

Chống đối bị 11 năm tù

Một bản án của Tàu Cộng đã bị dư luận khắp nơi bên Tây phương lên án đã đưa nhà đối kháng Liu Xiaobo vào tù với thời gian 11 năm.

(Lược dịch từ BBC)

Wednesday, December 23, 2009

Hồi ký


Mẹ tôi đã tập tôi biết đan từ thuở tôi lên 12 tuổi. Người bảo: Con là con gái, để mẹ dạy cho con biết những vụn vặt của con gái, nhỡ mai này gia đình con sa cơ thất thế, con có cái gì đó để giúp đỡ chồng, nuôi con !

Thế là tôi đã biết đi chợ, biết cách nấu ăn, biết làm bánh, biết đan len, biết móc áo, biết may vá trong sự vụng về của cái tuổi còn mê nhảy lò cò ấy. Và tôi đã được mẹ tôi dẫn đi khắp các tiệm để chọn len mà mình thích - một cách dỗ ngọt một đứa con nít chịu khó ngồi yên một chỗ ... nhưng tôi quả thật đã mê màu sắc của những cuộn len trong tủ kính bán hàng và như lạc vào thế giới của những quả bóng trên nền trời tung tăng của tuổi thơ. Tôi thích cảm giác êm ái khi vuốt nhẹ lên những búp len mịn màng, độ xốp của nó lan dần trong bàn tay tôi, làm tôi cảm thấy rất thú vị. Lại còn thêm mùi len mới thơm lạ kỳ, như thể trang sách thơm mùi mực in.

Lúc ấy, tôi cũng không hiểu tại sao tôi lại đam mê màu sắc của những sợi len đến thế, vì tôi là người không biết vẽ - hay nói đúng hơn, môn vẽ trong lớp tôi chỉ vào hạng trung bình - họa may vẽ trắng đen thì còn được cao điểm hơn chút xíu vì còn có ánh sáng phụ vào nét vẽ của tôi để nộp bài cho thầy cô. Vẽ truyền chân cái hộp thì chỉ việc để cái hộp ấy ra giữa trời cho ánh nắng rọi vào rồi vẽ thôi !

Nhưng đến khi tôi nhìn những màu len, lòng tôi lại cảm thấy thích thú lạ và bỗng dưng muốn phối hợp hết tất cả những màu sắc ấy thành một " tác phẩm " xem thử ra sao! Tuổi thơ vẫn tưởng như mình thật là vĩ đại trong muôn vàn mơ ước vẽ vời ... để rồi cuối cùng: Tôi học đan !

Cái ngày trọng đại ấy đã bắt đầu bằng hai bàn tay toát mồ hôi ướt nhẹp, chỉ vì tôi đã cố gắng níu chặt sợi len, bằng cái mỏi lưng khủng khiếp, với cái cổ thẳng đơ. Trong lòng tôi đã nghĩ: Đan khó quá, con không muốn học nữa đâu, mẹ ơi.

Hai cây kim đan không như chiếc đũa thần hóa phép trong tay tôi. Tất cả là sự vụng về. Tội nghiệp những sợi len mềm mại làm sao! Chúng đã không còn là màu hồng ngọt lịm nữa mà chúng đã bị ngả sang màu hồng pha nâu nhạt. Tiếng rít của hai chiếc kim đan bằng kim loại, lời dặn của mẹ tôi hãy thả lỏng sợi len ra, đừng siết chặt quá như thế này, mỗi ngón tay cần ở một vị trí cố định, giữ sợi len cho đừng tuột ra khỏi tay nắm ... Một bài học tưởng chừng như đơn giản lắm, thế mà tôi đã vật lộn với nó đến đổ mồ hôi !

Bàn tay mẹ tôi gân guốc nổi lên từ những lao đao, truân chuyên của cuộc đời đã ôm gọn đôi bàn tay nhỏ bé của con trẻ, dạy cho nó từng mũi kim đan. Có lẽ mẹ đã một đời đi qua những nhọc nhằn của cuộc sống, nên không muốn cho con gái mình sẽ vất vả như mình ngày xưa.

Dần dần, bàn tay tôi đã không còn ướt khi nắm sợi len trong tay nữa, cũng không còn vuột mất mũi đan rồi loay hoay níu nó lên ! Vài tháng sau, tôi đã đan được một " tác phẩm diệu kỳ ". Mảnh đan len hình chữ nhật, lớn cỡ bằng bàn tay của tôi với một mũi duy nhất: Mũi xuống!

Thành phẩm ấy đã khiến tôi hoàn toàn quay lưng lại với ý nghĩ trước đây - đan len khó lắm ! Và tôi đã ngắm nghía nó như từng ngắm nghía 8 điểm son bên trái của một bài luận văn học trò kèm theo lời phê " Khá ".

Bẵng đi mãi đến 11 năm sau tôi mới có dịp đan lại những mũi kim năm xưa - tôi đan khăn choàng và mũ len cho ba tôi, người đang ở trong tù của chế độ khắc nghiệt Cộng Sản, còn mẹ tôi đan áo. Có biết bao nhiêu người vợ đã từng âm thầm đan áo cho chồng như mẹ tôi. Cái tình yêu lặng lẽ ấy dường như nồng nàn hơn cái hôn đầu đời thuở, đằm thắm, ngọt ngào hơn ly rượu hồng ngày cưới, vì nó đã trải qua năm tháng chia sẻ ngọt bùi bên nhau.

Năm ấy, mẹ tôi và tôi đã ngồi dưới ánh đèn dầu leo lét, mù mờ hàng đêm để đan cho ba tôi những vật dụng đặc biệt ấy - đó là năm tháng mà chúng tôi không có cái để ăn, không có một mái nhà lá lành lặn để chui ra chui vào, thì chuyện mua len đan áo thật là một chuyện nghịch lý . Mẹ con tôi đã bước chân đến cửa tiệm bán len như những bà nhà quê ra tỉnh lần đầu tiên. Những ngón tay cùn mằn, trụi lũi, móng bám đầy đất, những ngón chân vàng phèn chua của ruộng, những gót chân nứt nẻ chẳng biết dấu đi đâu được! Người bán hàng ngỡ chúng tôi vào xem cửa tiệm cho biết, chứ không tin rằng chúng tôi sẽ mua len và kim đan áo !

Hai mái đầu bạc và xanh ngồi kề bên nhau miệt mài, tỉ mỉ đan từng mũi kim. Những mảng ruộng ngoài sân đang sắp đến mùa gặt cuối tháng Chạp nên xào xạc giữa khuya. Tiếng ếch nhái kêu ồm ộp thâu đêm. Tiếng kim đan chạm nhau kêu lách cách. Tất cả đều nghe rõ mồn một trong cái không gian yên lặng của mẹ con tôi.

Tình yêu của một người vợ thật sâu sắc, tiềm ẩn trong tim. Nó chỉ được thể hiện ra trong những săn sóc mà chỉ có hai người mới hiểu nhau. Từ đó, mẹ tôi nghĩ rằng chiếc nón len phải được đan phủ hai bên tai, phủ trước trán, rồi làm sao phủ cả vòng cổ cho ấm! Tôi đã loay hoay với một chiếc nón len như thế - giá như tôi vẽ được, có lẽ sẽ vẽ được dễ dàng hơn cho kiểu nón ấy.

Thế là những sợi len được tôi cắt nối một cách bất thường. Chiếc nón mà tôi đan cho ba tôi màu xám tro nhạt đã là từng mảnh riêng rẽ được nối lại không bài bản, miễn sao nó "phủ" hết những nơi mà mẹ tôi muốn! Dường như nó sẽ làm ấm lòng mẹ tôi trước khi ba tôi được ấm, để buộc hai trái tim vợ chồng lại với nhau một cách vô hình nhưng thật sâu đậm. Nhìn những mũi đan quyện vào nhau xếp hàng thứ tự, tôi đã bất chợt tự hỏi không biết mẹ tôi có đếm thầm những năm tháng ba mẹ tôi bên nhau như đếm từng hàng đan, từng khoảng cen-ti-mét cho đúng kích thước một thân áo không ... Những quãng đời thăng trầm, gian truân đã lắng đọng lại trong lòng mẹ tôi điều gì và mẹ tôi đã nghĩ gì khi ngồi đan áo cho chồng. Hình như đó cũng là một hạnh phúc, nhưng pha lẫn với niềm hạnh phúc ấy là nước mắt ….

Có những đêm trời mưa gió bên ngoài song cửa, ngọn đèn dầu leo lét chao đi và tắt phụp, chỉ còn lại ánh sáng của sấm sét ngoài trời soi mờ mờ khuôn mặt và dáng ngồi của mẹ. Bàn tay lạnh vì mùa đông đã đến, lại thêm đầu ngón tay trỏ bị móp đi vì mũi kim đan làm tôi xuýt xoa. Mẹ tôi bảo tôi đi ngủ để mai đan tiếp cũng được; nhưng mãi đến khi tôi đã ngủ được một giấc dài, chợt giật mình giữa khuya, tôi vẫn thấy mẹ tôi còn cặm cụi đan !

Dường như mẹ tôi không an tâm từng giây, từng phút một khi biết ba tôi đang bị lạnh ở đâu đó giữa nơi núi thẳm rừng sâu, nên đã cố gắng đan thật nhanh chiếc áo cho chồng. Riêng tôi thì vẫn còn con nít lắm, luôn hỏi mẹ tôi rằng có lẽ chiếc khăn quàng đã dài đủ chưa. Những ngón tay bé xíu của tôi đã bắt đầu biết mỏi khi đan được đến ngày thứ hai, rồi lại mỏi lưng nữa. Tuy trong lòng tôi cũng thương ba tôi như mẹ tôi thương ba tôi vậy, nhưng tôi mong chiếc khăn chỉ ngăn ngắn như thế là được rồi!

Những sợi len màu xám tro nhạt ấy đã thức thâu đêm với mẹ con tôi trong những đêm tối tăm của cuộc đời sau năm 75, nhưng nó sáng rực tình yêu trong lòng mẹ tôi ... Có lẽ mẹ tôi đã chợt nghĩ thầm đến cái nhìn trìu mến của ba tôi - chứ không phải là một lời cám ơn - khi khoác lên người chiếc áo len. Trong ngần ấy yêu thương, hai người đã hiểu thấu được lòng nhau ...

Sương khuya xuống vội. Tiếng phên cửa đập phành phạch nhịp theo tiếng gió lùa ngoài sân. Bàn tay mẹ đã từng ngang dọc vết cắt của rơm rạ ngoài đồng, nay thêm vết hằn của kim đan - vẫn lặng lẽ với gió lạnh bên manh áo tình. Đôi vai gầy của mẹ dường như không biết mỏi, vẫn nghiêng bóng bên mũi kim đan thoăn thoắt. Thỉnh thoảng mẹ tôi lại trải mảng len đã đan được xuống mép giường để ngắm hay dùng gang tay để đo chiều dài. Thẳm sâu trong đôi mắt yêu chồng, chắc hẳn mẹ tôi đã mường tượng ra ba tôi. Bàn tay xấu xí và gân guốc ấy đã chăm chút từng chén cơm, bát canh nóng, ly nước, viên thuốc bệnh cho chồng. Nay cũng bàn tay ấy vuốt ve tấm áo rồi ướm thử lên thân người mình. Có lẽ vòng eo sẽ héo hon trong ngày vợ chồng đoàn tụ.

Có khi tôi thấy mẹ tôi ngồi ngắm mảnh áo rồi thẫn thờ một lúc lâu ... Chắc là khi đan áo, mẹ tôi đã nhớ lại hết những thói quen, ý thích của ba tôi trong chuyện quần áo, để lâu lâu bất chợt mẹ tôi lại tháo đi những hàng len phạm lỗi - vì chỗ này phải rộng ra thêm chút nữa hay chỗ kia sẽ vừa vặn như thế này mới được!

Tôi cảm thấy hình như tôi còn bé quá để hiểu được những từ ngữ tấm mẳn thương yêu, những ấm lạnh mặn nồng trong tình nghĩa vợ chồng, nhưng tôi cảm nhận được mẹ tôi yêu ba tôi nhiều lắm - yêu đến nỗi quên mình là ai, chỉ thấy người mình yêu là tất cả.

Sợi len cuối cùng đã dứt. Rút hết ruột những búp len tựa như rút hết cõi lòng của mẹ tôi. Có lẽ chúng đã gói trọn hết ân tình và những nỗi lo toan của mẹ tôi chăng ? Không, vẫn chưa đủ! Lại khoác lên người xem như thế nào ... Trên khuôn mặt hốc hác của mẹ tôi được trùm kín mít bởi chiếc nón len, khăn quàng và chiếc áo nữa hãy còn những nét lo lắng: Không biết ba tôi còn cần gì nữa đối với những Sợi Len Mùa Đông này không ? Có đủ ấm không ? Chỉ có duy nhất một chiếc áo, thế thì nhỡ ướt thì làm sao có nắng ấm phơi cho kịp khô ... Nghe người ta nói ngoài Bắc rét lắm. Mẹ tôi chả hình dung được cái rét cóng người ở chốn xa xăm ấy, nhưng như những sợi len quyện chặt nhau, mẹ tôi đã đem gửi hết cả hồn lẫn xác của thương nhớ vào từng mũi kim đan.

Bao nhiêu gói ghém đã âm thầm vượt ngàn dặm trong gói quà thăm nuôi ba tôi. Tôi nghe mẹ tôi kể lại ngày mẹ tôi đưa ba tôi chiếc áo len ấy, ba tôi đã ôm lấy đôi vai của mẹ tôi một thoáng ... Chỉ ngần ấy thôi, đôi vai trĩu nặng gồng gánh của mẹ tôi đã dường như mềm lại, rồi mẹ tôi rươm rướm nước mắt. Tất cả những chịu đựng đã vỡ òa .Tất cả thương nhớ trong lòng đè nén bấy lâu nay bỗng theo dòng nước mắt tràn ra ... Không có một lời nói nào. Không một cái hôn ngọt ngào của chồng vợ. Không một câu dặn dò trao nhau, nhưng nghìn trùng đường xa đã đem mẹ tôi đến với ba tôi trong lao lý nghiệt ngã một câu ân tình thủy chung trọn vẹn.

Chiều dài của những sợi len đan trong chiếc áo, cái nón, chiếc khăn quàng sẽ không đủ dài như đoạn đường thăm thẳm mà mẹ tôi đi đến ba tôi, nhưng ngần ấy dặm dài đã cưu mang ân tình của người và tất cả những mối chỉ đã buộc chặt lại tấm lòng sắt son của một người vợ.

Mãi đến khi ba tôi về sum họp với gia đình, ba tôi vẫn còn giữ lại mảnh áo kỷ niệm ấy. Riêng tôi, mỗi khi nhìn lại chiếc áo, tôi lại chạnh lòng nhớ đến mẹ tôi trong những đêm khuya năm xưa. Màu len rồi sẽ phai, những món đan len ấy có thể sẽ mục theo năm tháng, nhưng trong lòng tôi, những sợi len ấm lạnh ấy sẽ còn mãi mãi yêu thương mặn nồng .

Những năm sau đó, mẹ tôi đã không còn đan áo cho ai như ngày xưa đan áo cho chồng, cho con, nhưng thỉnh thoảng đem ra giặt lại những tấm áo, chiếc nón cũ ấy như hồi tưởng lại quá khứ - một đoạn đời cam go, khổ ải thăng trầm của một gia đình và của những kiếp người. Chúng tôi đã sống hạnh phúc với nhau trong những điều kiện khắt khe của dòng đời như mọi người, nhưng tâm hồn chúng tôi dịu dàng như những sợi len mềm mại và đầy hy vọng như những màu len tươi thắm.

Và quả thật như lời mẹ tôi đã nói từ lúc dạy tôi đan, công việc đan len đã trở thành một cái nghề sinh nhai cho tôi sau này. Tôi đã đan len kiếm tiền để sống. Khách hàng của tôi là những người được đi ngoại quốc theo diện HO hay ODP. Ngoại quốc - danh từ này lúc ấy là một thiên đàng - dẫu họ được đi đến một xứ nào ngoài Việt Nam đi chăng nữa, đối với tôi và có lẽ đối với tất cả mọi người trong ý nghĩ, những nơi ấy đều là thiên đàng hết cả, vì nơi chúng tôi đang sống là địa ngục. Họ đã bước chân lên cầu thang của một chuyến bay vĩnh viễn xa xứ và đem cả những chiếc áo len, khăn quàng do tôi đan. Ước mơ của tôi cũng chắp cánh bay cao lên tầng mây theo họ trong nỗi niềm chờ đợi và hy vọng.

Đôi mắt mẹ tôi không còn tinh tường nữa để đan áo, nhưng đã phụ tôi tháo len ra khi tôi cần pha màu cho chiếc áo hay kết lại những mảnh thân áo. Có lúc tôi nhận được lời đặt hàng muộn màng và chuyến bay thì lại cố định, tôi lại phải thức suốt đêm để đan xong chiếc áo cho khách, rồi vội vàng ra phi trường để giao hàng. Đứa con gái của mẹ đã thầm cám ơn mẹ đã dạy cho con một nghề lương thiện để mưu sinh.

Cứ đến khoảng tháng chạp, đầu Đông - là những sợi len, màu sắc của nó lại quay về dịu dàng trong hồn tôi. Hay mỗi lần nhìn thấy phố xá khoác áo tình nhân bằng những chiếc áo len đủ màu, đủ kiểu trong đêm Giáng Sinh, tôi lại nhớ đến đêm Giáng Sinh năm nào của ba tôi với bộ đồ len mà mẹ con tôi đã đan trong cái chòi tranh rách bươm của một gia đình. Những ấm lạnh tình người năm xưa đã vĩnh viễn ngự trị trong lòng chúng tôi - những người sống vì yêu thương nhau thật trọn vẹn dẫu phải ngụp lặn trong nghèo nàn, đói khổ, mưa gió bên đời.

Những Sợi Len Mùa Đông của mẹ con chúng tôi đã trở thành những mũi đan mắc xích thật chặt với nhau. Chúng quyện lẫn nhau một cách đầm ấm, hài hòa. Bàn tay của mẹ tôi đã buông thỏng ở một nơi nào đó bên kia thế giới, nhưng trong tôi, muôn đời vẫn giữ mãi hình ảnh đôi bàn tay xương xẩu nhưng tràn đầy tình yêu đối với ba tôi.

Trong cái lạnh của những ngày tháng cuối năm như thế này, không biết chốn ấy mẹ có lạnh không? Có ai đan cho mẹ một chiếc áo ân tình như năm xưa mẹ đã đan cho ba không?

Con nghĩ rằng, ba sẽ đến ngồi bên mộ mẹ và nói với mẹ rằng: Anh nhớ chiếc áo màu xám tro của em đan cho anh trong những năm anh ở tù ... Trên di ảnh của ngôi mộ vẫn là nụ cười lúm đồng tiền của mẹ mà ba yêu mấy chục năm về trước.

Mùa Đông chỉ là cái lạnh của buốt giá bên ngoài nơi đây .....

Như Thương
(Giáng Sinh 2009)

Monday, December 21, 2009

Hội CSV QGHC New South Wales lên tiếng


NHỮNG Ý KIẾN ĐÓNG GÓP
của hội CSV QGHC New South Wales Úc Châu
về những khủng hoảng cấp Tổng Hội:

- vì tình hình những biến động xảy ra trong thời gian gần đây của Tổng Hội đã đưa đến nhiều tranh cãi gây mất đoàn kết trong tập thể cựu sinh viên Quốc Gia Hành Chánh;

- theo tin
h thần lá thư của Ban Quản Trị hội CSV QGHC Texas, Hoa Kỳ gửi cho Hội Đồng Quản Trị và Ban Chấp Hành Tổng Hội;

- dựa trên các ý kiến của các hội CSV QGHC Tiểu Bang Victoria và Queensland ;

- dựa trên quyết định của tập thể hội viên trong phiên họp ngày 20 tháng 12 năm 2009.

Hội CSV QGHC New South Wales Úc Châu có những ý kiến đóng góp sau đây:


1. Giải thể cơ cấu Hội Đồng Quản Trị sau khi Hội Đồng nầy mãn nhiệm kỳ vào ngày 31 tháng 12 năm 2009.


Theo như tin được biết, đã có tất cả 9 trong số 19 hội địa phương lên tíếng, hoặc rút ra khỏi Tổng Hội, hoặc tạm thời không sinh hoạt với Tổng Hội, hay đòi giải thể Hội Đồng Quản Trị. Nay thêm hội CSV QGHC New South Wales Úc Châu không tán thành sự tiếp tục tồn tại của cơ cấu Hội Đồng Quản Trị, do đó thiết nghĩ cơ cấu Hội Đồng Quản Trị hiện tại không có lý do gì để tồn tại nữa kể từ ngày Hội Đồng Quản Trị đương nhiệm sẽ mãn nhiệm kỳ vào ngày 31 tháng 12 năm 2009.

2. Ban Chấp Hành Tổng Hội đương nhiệm có nhiệm vụ triệu tập và thành lập một Ủy Ban Lâm Thời gồm các Chủ tịch các hội địa phương là thành viên, trưởng phó ban sẽ do các Chủ Tịch của các hội địa phương nào có nhiều thành viên đảm nhiệm. Ủy Ban Lâm Thời có nhiệm vụ nghiên cứu sửa đổi bản nội quy 2003 hay nếu cần soạn thảo nội quy mới cho thích hợp với tình hình hiện tại;

3. Sau khi bản nội quy mới được thông qua và ban hành, Ủy Ban Lâm Thời sẽ đứng ra tổ chức bầu cử lại các cơ cấu Tổng Hội theo tinh thần nội quy mới. Sau khi bầu cử xong, Ủy Ban Lâm Thời sẽ giao nhiệm vụ cho các cơ cấu mới và tự mãn nhiệm;

4. Hội CSV QGHC New South Wales Úc Châu không có ý định từ bỏ Tổng Hội vì lý do Tổng Hội là một cơ cấu lãnh đạo tinh thần của tất cả các CSV QGHC trên toàn thế giới chứ không phải là của một cá nhân hay một nhóm người nào;

5. Yêu cầu ngưng ngay lập tức những chỉ trích có tính cách mạ lỵ phỉ báng làm thương tổn đến danh dự chung của tập thể CSV QGHC.

Sydney Australia, ngày 20 tháng 12 năm 2009
TM Hội CSV QGHC NSW Úc Châu
Chủ Tịch Trần Văn Phan

Sunday, December 20, 2009

Phân tích chính trị


Vài Cảm Nghĩ Cuối Năm 2009*

Lê Văn Bỉnh
Hà Nội chỉ tin những người mà họ nuôi dưỡng, tức những người do họ “đào tạo, bồi dưỡng” và được cài vào trong các CĐNV ở nước ngoài. Hà Nội chỉ tin những người đó, và sẽ không để cho những người này xuất đầu lộ diện, trừ phi những người này được cho về hưu. Họ không bao giờ tin cậy những người “tự phát” tức là những người bỗng dưng tự cảm thấy “yêu xã hội chủ nghĩa”...

Nếu trước 1975, và cả hơn một thập niên sau đó, khoảng 400 đảng viên cao cấp trong “danh sách mật” được hưởng những đặc quyền đặc lợi vật chất để khỏi cấu xé chỉ trích nhau, thì ngày nay những món tiền kếch sù trong các trương mục ngân hàng nước ngoài, những nhà cao cửa rộng, xe cộ đắt tiền, kẻ hầu người hạ, nhiều cơ hội du lịch, du học cho gia đình cho nhiều lần hơn danh sách đó đã, đang và sẽ là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt sự đoàn kết để củng cố quyền lợi của họ

Là người Việt sinh sống ở nước ngoài, chúng ta không những đã trải qua một năm nhiều khó khăn về kinh tế ở nơi sinh sống, mà trong lòng còn vẫn không yên đối với những diễn biến xảy ra nơi quê nhà.

Tại Hoa Kỳ, sự nhậm chức long trọng và đầy hứa hẹn của vị tân tổng thống da màu đầu tiên vào Toà Bạch Ốc, cũng như sự hiện diện đa số của dân biểu và nghị sĩ thuộc đảng Dân Chủ tại lưỡng viện quốc hội Hoa Kỳ cũng không vạch ra được con đường đi thênh thang suông sẻ cho đảng chính trị đưọc giao trọng trách lèo lái con thuyền quốc gia.

Thật vậy, để đạt tới các mục tiêu chính trị mong muốn, đường lối và chính sách phục hồi kinh tế tài chánh, cải tổ xã hội y tế, tăng cường hoạt động ngoại giao quân sự vv. của người đứng đầu ngành hành pháp không những phải được sự chấp nhận của lập pháp mà còn phải được sự đồng thuận của dân chúng qua thông tin báo chí, qua các cuộc biểu tình cũng như qua các buổi tranh luận giữa các vị dân cử và dân chúng. Nói chung, sự thắng cử và tái đắc cử của các nhà lập pháp lại chủ yếu tùy thuộc rất nhiều vào truyền thông, các định chế vận động hành lang làm việc cho các nhóm quyền lợi và các đoàn thể áp lực, và dĩ nhiên dân chúng địa phương.

Người ta thường không đề cập đến lập trường của các thế lực trên bằng tên của chính đảng Dân Chủ hay Cộng Hòa, mà bằng chủ nghĩa, lập trường hay khuynh hướng chính trị của họ. Tại nghị trường, dân biểu hay nghị sĩ thuộc Đảng Dân Chủ có thể không bỏ phiếu thuận cho dự luật mà vị Tổng Thống thuộc Đảng Dân Chủ đưa ra; và ngược lại. Nói một cách tổng quát, có hai chủ nghĩa chính trị chủ yếu chi phối sinh hoạt chính trị Hoa Kỳ. Đó là chủ nghĩa cấp tiến (liberalism) và chủ nghĩa bảo thủ (conservatism).

Tại Hoa Kỳ, chủ nghĩa cấp tiến đã thay đổi ít nhiều nội dung so với nguyên thủy Âu châu của nó. Bắt nguồn từ một bộ phận lập pháp Tây Ban Nha tự gọi mình là Liberales để phản đối sự chiếm đóng của Napoleon, danh từ này sau đó được sử dụng ở Pháp để chống lại sự tái lập vương quyền của giòng họ Bourbons năm 1814. Ở Anh, nhiều đảng viên Whigs và một số nhỏ đảng viên Tores chống lại áp lực của Hoàng Gia và tiến tới sự thành lập Đảng Liberal vào những năm 1850.

Sau đó, những tư tưởng mới mẻ khác đã làm thay đổi bộ mặt chính trị châu Âu. Đặc biệt John Locke (1632–1704) ở Anh và Jean-Jaques Rousseau (1712–1778) ở Pháp cho rằng con người có những quyền tự nhiên, và với sự đồng ý của họ mà chính quyền đã được lập ra để duy trì và bảo vệ những quyền đó chống lại những đe dọa từ trong và ngoài nước. Tóm lại chủ nghĩa cấp tiến cổ vũ một xã hội mở rộng và khoan dung trong đó con người có quyền tự do theo đuổi tư tưởng và quyền lợi của mình với sự can thiệp càng ít càng tốt của chính quyền (phong kiến, hoàng gia) cùng các thế lực khác (tôn giáo, quý tộc), theo phương châm:”Pour gouverner mieux, il faudrait governer moins….Laissez faire! Laissez faire!” của Hầu Tước d’Argenson (1964-1751)

Nhưng thế nào là một xã hội tự do và làm sao để có một xã hội tự do? Tự do là gì, và làm sao để tăng tiến nó? Đây là những câu hỏi không những gây tranh luận giữa chủ nghĩa cấp tiến và các chủ nghĩa khác, mà còn giữa những người theo cùng chủ nghĩa cấp tiến với nhau. Chính những tranh luận này, cũng như hoàn cảnh chính trị, kinh tế, xã hội khác, đã chuyển mục ttiêu cực của chủ nghĩa cấp tiến, tức phá vỡ những trói buộc nói trên, sang mục tiêu tích cực, tức tạo dựng một xã hội mới mẻ tốt đẹp hơn.

Cùng với sự di dân châu Âu, những hạt giống tự do nói trên cũng tìm được đất tốt nẩy mầm và phát triển. Thật vậy, những nguyên tắc trong bản tuyên ngôn về nhân quyền của Virginia (The Virginian Declaration of Rights, ngày 12/06/1776 ) đều dựa trên tư tưởng của Locke, rằng tất cả mọi người tự bản chất đều tự do và độc lập như nhau và có những quyền cố hữu không thể bị tước đọat đi, rằng chính quyền được dựng lên vì lợi ích, bảo hộ và an ninh chung cho dân chúng, cộng đồng hay quốc gia, rằng dân chúng được quyền tự do bầu cử, tự do tín ngưỡng vv. Cũng dựa trên tư tưởng chính trị của Locke, Thomas Paine bằng lời văn trong sáng và hùng hồn đã viết ra quyển sách ngắn Common Sense cho rằng Mỹ chỉ thiệt thòi nếu còn dính líu với Anh, và kêu gọi chính quyền nước Anh phải chấm dứt trên vùng đất mới. Các sử gia Hoa Kỳ đồng ý rằng chính quyển sách mỏng này đã đưa nước Mỹ tới tuyên bố độc lập.

Bản Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ (4/7/1776) đề cao các quyền công dân mà quan trọng nhất là 3 quyền: quyền Sống, Tự Do và Mưu Cầu Hạnh Phúc (Life, Liberty và Pursuit of Happiness) dựa trên luật truyền thống Liberty, Property và Contract. Một số điều khoản của Hiến Pháp Hoa Kỳ (17/09/1787) với những hậu quả kinh tế thường được Tối Cao Pháp Viện giải thích không thuận lợi cho sự can thiệp của chính quyền liên bang. Đó là trường hợp của nhiều biện pháp do Tổng Thống Franklin Delano Roosevelt ban hành trong nhiệm kỳ đầu để đối phó với cuộc Đại Suy Thoái Kinh Tế (The Great Depression) đầu thập niên 1930, đã bị phán là vi hiến.

Một điều khá lạ lùng là nhiều người Mỹ đã, đang và sẽ hưởng những lợi lộc do khuynh hướng cấp tiến đem đến lại chống đối mạnh mẽ các sự can thiệp của chính quyền liên bang vào các lãnh vực kinh tế xã hội được phản ảnh khá rõ ràng trong cuộc vận động cải tổ y tế hiện nay của Tổng Thống Obama. Sau đây là 3 loại an sinh xã hội quan trong nhất ra đời nhờ khuynh hướng cấp tiến: Trước hết, tiền an sinh xã hội (social security benefits, thường được cộng đồng người Việt gọi là “tiền hưu”) do Tổng Thống Roosevelt (Dân Chủ) khởi xướng trong kế hoạch New Deal và ban hành ngày 14/08/1935 sau khi được Quốc Hội thông qua. Thứ hai, Medicare và Medicaid do Tổng Thống Lyndon Johnson (Dân Chủ) ban hành ngày 30/07/1965, một phần của chương trình Great Society. Còn Supplemental Security Income (SSI, được CĐNV gọi là “tiền già” được Hạ Viện thông qua với 169 phiếu thuận (và 79 phiếu trắng) của dân biểu Đảng Dân Chủ so với 132 phiếu chống (và 43 phiếu trắng) của dân biểu Đảng Cộng Hoà; và sau đó được Thượng Viện thông qua với 36 phiếu thuận (18 phiếu trắng) của nghị sĩ Đảng Dân Chủ so với 23 phiếu chống (và 21 phiếu trắng) của nghị sĩ Đảng Cộng Hòa; cuối cùng Tổng Thống Nixon (Cộng Hoà) đành phải ban hành ngày 17/10/1972.

Tổng Thống Obama, trong khi chờ đợi nhậm chức cũng đã tỏ ý e ngại sẽ bị sự chống đối của khuynh hướng bảo thủ đối với các biện pháp bail out tài chánh mà ông sẽ áp dụng khi vào Tòa Bạch Ốc. Về phương diện kinh tế, lý thuyết thị trường tự do của Adam Smith (1723-1790) chủ trương nền kinh tế sẽ tự điều chỉnh khi gặp khó khăn, không cần sự can thiệp của chính quyền, sau những thời kỳ lận đận với chủ nghĩa cấp tiến, đã hiên ngang trở lại với những bài diễn thuyết hùng hồn hấp dẫn của kinh tế gia Milton Friedman --được giải Nobel-- cùng các biện pháp kinh tế cởi trói của Tổng Thống Reagan (Cộng Hòa). Tổng Thống Obama lo lắng cũng phải: Chủ nghĩa tư bản mà người Mỹ đã hãnh diện truyền giảng trước và sau sự tan rã của khối Cộng Sản giờ đây bị thử thách lớn lao trong khi những người bảo thủ thì lại không muốn mất đi hào quang của thời kỳ vàng son đó. Có người ví von rằng khi một cành cây bị héo, người cấp tiến muốn chặt nó đi để cứu cây; còn người bảo thủ muốn để y như vậy! (Trong khi người cộng sản thì chủ trương đốn bỏ luôn, trồng cây khác!)

Dự Luật Cải Tổ Y Tế của TT Obama được Hạ Viện thông qua ngày 07/11/09 với 220 phiếu gồm 219 DC và 1 phiếu CH của Dân Biểu gốc Việt, so với 215 phiếu chống gồm 176 CH và 39 phiếu DC. Mặc dù Thượng Viện có tới 60 nghị sĩ DC, nhưng vận động để có 60 phiếu đồng ý chấm dứt các cuộc tranh cải câu giờ (filibusters) để sang qua phần bỏ phiếu (chỉ cần 51/100 phiếu thì dự luật sẽ được thông qua) cũng là điều khó khăn, mất rất nhiều thời gian mới đạt được, trong ngày bão tuyết 19/12/09. Đây là cơ hội vô cùng hiếm có để Hoa Kỳ có chế độ y tế phổ thông như hầu hết các nước phát triển khác. (Dĩ nhiên sẽ còn cải tổ nhiều thêm nữa sau này thì mới hoàn chỉnh). Nói cách khác, các thế lực bảo thủ vẫn còn rất mạnh.

Riêng đối với CĐNV, lại càng có nhiều người không để ý những sự thật nêu trên. Chúng ta thường cho là chỉ có khuynh hướng bảo thủ, tức Đảng Cộng Hoà mới chống Cộng cật lực. Có đúng vậy chăng trong mấy thập niên vừa qua? Ai là người doạ “cắt đầu” Tổng Thống Thiệu nếu TT Thiệu không chịu ký Hiệp Định Paris đầy những nhượng bô cho Cộng Sản? Xin tiết lộ: Tổng Thống Nixon! Ai là người lúc còn trong Tòa Bạch Ốc soạn road map để chuẩn bị bang giao với Hà Nội, rồi sau khi thất cử, được các nhà đầu tư Mỹ trả tiền sang Việt Nam, lại từ Hà Nội khen ngợi Tổng Thống Clinton tái lập bang giao với Hà Nội. Xin thưa: Tổng Thống Bush (Cha)! Dĩ nhiên, chúng ta bỏ phiếu, hay phát biểu chính kiến có thể là do cảm tình, có thể do lý trí, hoặc cả hai. Nhưng khi viện dẫn sự kiện, thì “sự kiện” phản ảnh ít nhiều sự thật sẽ dễ thuyết phục hơn. Nếu một ngày nào đó, Hoa Kỳ đụng độ với Trung Cộng, thì đó chỉ là do sư xung đột quyền lợi của giữa 2 siêu cường này mà thôi. Việt Nam sẽ không thể nào là một yếu tố đáng kể để đưa đến sự xung đột đó.

Khi nghĩ về Việt Nam, nhiều người trong chúng ta nếu còn nhiệt huyết với quê hương thì tỏ rõ phẫn uất với Hà Nội; những người còn lại thì cảm thấy chán chường. Sau chiến thắng Pyrrhus (Pyrric victory -- một chiến thắng phải trả giá cao), nhuộm đỏ toàn đất nước, những người Cộng Sản Việt Nam đã không từ nan bất kỳ biện pháp và hành động cai trị tệ hại nào miễn làm sao họ được “vinh thân phì gia.”. Trong nước thì họ bóp nghẹt tự do ngôn luận, tù đày những người nói lời chỉ trích, phản kháng; đàn áp tôn giáo; áp dụng chính sách giáo dục ngu dân làm trò cười cho những bậc thức giả trong lẫn ngoài nước; theo đường lối xã hội hạ giảm phẩm giá người phụ nữ; kinh doanh trục lợi cho đảng và đảng viên (quân đội kinh doanh; đảng bộ kinh doanh, đảng viên kinh doanh dưới chiêu bài tư doanh); không ngăn chặn nổi tham nhũng –hay không muốn--và hối lộ càng ngày càng tràn lan vv. Ngoài nước, thì xuất khẩu lao động, xuất khẩu phụ nữ để bốc lột qua lệ phí và kiều hối gửi về; lạm dụng và phí phạm công quỹ cho văn công tuyên truyền vô vọng để nhằm tuyên truyền lôi cuốn kiều bào. Quan trọng nhất là hành động ươn hèn nhượng đất liền, hải đảo cho Trung Công. Phải chăng đây cũng là một mật ước với Bắc Kinh trước đây để đổi lấy “chi viện” của đàn anh “môi hở răng lạnh”? Nếu không, thì tại sao Phó Chủ Tịch Nước Hoàng Văn Hoan, vốn là cựu Đại Sứ của Hà Nội tại Bắc Kinh, lại bỏ trốn sang Tàu? Chưa đủ, bây giờ họ lại “mời” Trung Cộng đầu tư khai thác quặng bauxite ở Cao Nguyên Trung Phần, để cho các nhà đầu tư ngoại quốc khác phải bỏ đi. Nếu lý luận rằng Hà Nội đầu hàng trước sức mạnh quân sự của Trung Cộng, thì họ không còn tin ở cái “lương tâm thời đại” mà trong cuộc chiến tranh thôn tính miền Nam họ thường khoe khoang hay sao?

Nếu trước 1975, và cả hơn một thập niên sau đó, khoảng 400 đảng viên cao cấp trong “danh sách mật” được hưởng những đặc quyền đặc lợi vật chất để khỏi cấu xé chỉ trích nhau, thì ngày nay những món tiền kếch sù trong các trương mục ngân hàng nước ngoài, những nhà cao cửa rộng, xe cộ đắt tiền, kẻ hầu người hạ, nhiều cơ hội du lịch, du học cho gia đình cho nhiều lần hơn danh sách đó đã, đang và sẽ là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt sự đoàn kết để củng cố quyền lợi của họ.Trong chiều hướng đó, đảng Cộng Sản Việt Nam chỉ là một “đảng bảo thủ” nghĩa là cố giữ lập trường cũ, cố bám móng sắt trên cơ thể gầy mòn và bệnh hoạn của đất nước. Chúng ta không hy vọng Hà Nội sẽ theo “khuynh hướng cấp tiến” tức là giảm bớt sử dụng các công cụ chuyên chế của chính quyền. Chỉ khi nào Hà Nội cách mạng cuộc cách mạng của họ, thì bộ mặt quê hương mới thay đổi, mới bớt lem luốc.

Điều này có thể không được những “Việt kiều yêu nước” được mời về Hà Nội hồi tháng 11/09 vừa qua nhận thức ra. Nhiều người trong đó không phân biệt được thế nào là “được nuôi dưỡng” và thế nào là “tự phát” hay “được móc nối.” Hà Nội chỉ tin những người mà họ nuôi dưỡng, tức những người do họ “đào tạo, bồi dưỡng” và được cài vào trong các CĐNV ở nước ngoài. Hà Nội chỉ tin những người đó, và sẽ không để cho những người này xuất đầu lộ diện, trừ phi những người này được cho về hưu. Họ không bao giờ tin cậy những người “tự phát” tức là những người bỗng dưng tự cảm thấy “yêu xã hội chủ nghĩa”. Hôm nay anh “tự cảm thấy yêu xã hội chủ nghĩa” thì ngày mai anh cũng sẽ dễ dàng “tự cảm thấy ghét” chúng tôi. Hà Nội cũng không tin vào những kẻ “được móc nối.” Chị “được móc nối” thì đó là do cái “công” của chúng tôi, chứ chẳng phải cái lòng của chị. Chị đâu phải là “người trước sau như một.” Những ai đã từng qua lao tù cộng sản hay sống nhiều năm với người cộng sản đều biết điều này. Trong những người “tự phát” hay được móc nối” được mời về đó có lẽ không ai đã từng nếm mùi tù đày kiềm kẹp của cộng sản. Thật ra trong cuộc đời, nhiều khi chúng ta chỉ có thể hình thành một vài nhận thức nào đó nhờ quãng đời chúng ta đã trải qua; đôi khi sách vở và lời lẽ của thân nhân hay bạn bè – dù chân thành – cũng không đủ khả năng thay thế cho các bài học tiếp thu được qua kinh nghiệm đắng cay của bản thân. Hà Nội khoác lác là “những người yêu nước” này sẽ trở về nơi sinh sống đề tiếp xúc và lay chuyển chúng ta. Không! Không! Họ đã “hoàn thành sứ mạng” rồi! Họ không thể làm gì được nữa. Thật đáng buồn. Cho họ! Và cũng buồn cho chúng ta nữa, vì chúng ta đã không giữ nỗi họ lâu dài bên chiến tuyến với chúng ta.

Dù sao thì những cánh chim lạc đàn nói trên cũng chưa có gì đáng ngại vì chưa nhiều và chưa đủ để có thể che khuất những tia hy vọng đang rọi chiếu trên vòm trời của cộng đồng người Việt hải ngoại mà sự thành công của lớp người trẻ càng ngày càng vẻ vang. Thêm vào đó, ý thức trách nhiệm của những người yêu nước bên kia bờ Thái Bình Dương cũng sẽ là “những đóm sáng” khởi đầu quan trọng. Chúng ta có quyền hy vọng năm Canh Dần 2010 sẽ đem lại nhiều niềm tin và hy vọng cho cả người Việt hải ngoại và nơi quê nhà.

Lê Văn Bỉnh
__________________
• Trích từ “Lá Thư Biên Tập” Hành Chánh Miền Đông số 15, sẽ xuất bản tháng 01/2010