Tuesday, March 31, 2009

Phân ưu

Xin được an nghỉ

Cùng các bạn ĐS 14
Được biết các đại diện lớp hôm qua đã gửi thư riêng tới chị Vũ Công Hùng
(Diễn Đàn)

Email chia buồn từ bốn phương 4

Anh Vĩnh và quí anh chị trên Trang Nhà ÐS 14,
Ðược tin anh Vũ Công Hùng ra đi vĩnh viễn ngày hôm nay, tất cả chúng ta mất một người bạn chân tình, tha thiết với bạn bè "gặp nhau" trên trang mạng điện toán. Chị Hùng, con cái mất một người chồng, người cha tốt. Các anh chị ÐS 14 mất một người bạn đồng khóa luôn luôn gắn bó với bạn bè xa gần.
Chúng tôi xin chân thành cầu nguyện hương linh anh sớm về Nước Chúa. Xin chia buồn cùng chị Hùng, gia đình, con cháu, quyến thuộc và bạn bè.

Ðỗ Xuân Trúc & Gia đình


(Vì bận rộn quá, Diễn Đàn suýt bỏ sót lời chia buồn đã nhận được rất sớm này. Thành thật xin lỗi anh Đỗ Xuân Trúc vì đã chậm trễ.)

**

Thưa Anh Thế Vĩnh ,
Nhận được tin buồn : Anh Hùng Vũ đã bỏ chúng ta, bỏ diền đàn mà đi Lãm Thúy đau buồn hết sức, không còn muốn nói gì - Dù là một lời chia buồn .
Đó là một tổn thất lớn lao của tất cả chúng ta, những ai đã từng đóng góp cho Diễn đàn Đốc Sự 14 , những ai đã từng yêu mến nơi gặp gỡ ấy, vì thế, xin lỗi Lãm Thúy không thể nói lời chia buồn ở đây.

CHÚNG TA CÙNG ĐAU BUỒN !
Xin Anh vui lòng chuyển lời đến gia đình Anh Hùng Vũ lời chân thành chia sớt nỗi đau tang tóc cuả một người đã từng nếm trải những đớn đau cùng tận cuả niềm tử biệt.

Cầu nguyện hương hồn Anh Hùng Vũ được mãi mãi bình an nơi nước Chuá .
Vĩnh biệt Mao Tôn !

Trân trọng .
Lãm Thúy
Cảm ơn Anh Thế Vĩnh.

**

Vô cùng bàng hoàng đau đớn xúc động được hung tin hiền sư đệ đa tài hoa Mao-Tôn-Hùng-Vũ Vũ Công Hùng, cựu Sinh Viên Học Viện Quốc Gia Hành Chánh Sài Gòn, khoá Đốc Sự 14, Webmaster Diễn Đàn CSV QGHC&Thân Hữu, đã về Nước Chuá lúc 2giờ15 ngày Chủ Nhật 29/03/09, Gia đình LuânTâm xin thành kính phân ưu cùng Chị Phước & các cháu & tang quyến.Xin cầu nguyện anh hồn Vũ hiền sư đệ được thanh thản an bình yên nghĩ đời đời trong Hoa Hồng Ân Điển của Thiên Chuá. Xin mạo muội chân thành kính điếu mấy vần thơ thô thiển sau đây để xin thay lời vô cùng thương tiếc tiễn đưa Vũ hiền sư đệ một đoạn đường trần . Gia Đình LuânT âm xin kính bái.
THĂNG HOA QUÊ NGƯỜI
(Vô cùng thương khóc Hiền sư đệ Mao Tôn Hùng Vũ )

Đầu xuân đất khách mưa dầm
Trời sầu đất thảm đường hầm đá đông
Như sét đánh như trời gầm
Hung tin Hùng Vũ ...phù vân...đoạn trường
Qua cầu lưu lạc tha hương
Gươm thiêng chiến mã còn vương ân tình

Luân Tâm
**

Vĩnh Biệt Vũ Công Hùng!
Đốc Sự XIV
-0-
Một đồng môn chưa một lần gặp mặt, nhưng lời nói sau cùng của Anh:

“Nhớ các bạn nhiều lắm
nhưng không thể nán lại lâu…”

nghe sao mà đứt ruột! – Tôi biết Anh đã cố gắng đến tận cùng…, nhưng biết làm sao được?!!! – Thôi thì…Anh cứ thanh thản ra đi trong sự tiếc thương của gia đình và bằng hữu.

Chúng tôi thương khóc tiễn Anh, nhưng trên nước Trời, đã có sẵn một số đồng môn đang ân cần chào đón. Vũ Công Hùng ơi! Anh sẽ không cô đơn trên ấy!

Xin thành kính chia buồn cùng Chị Hùng, các cháu và tang quyến.
Nguyện cầu linh hồn Anh sớm về nước Chúa, và vĩnh viễn sum họp với bạn bè trên cõi Thiên Đàng.

Nguyễn Văn Sáu (Trắng)
và gia đình

Phân ưu


Tiếc thương 18

Click to enlarge
**
( Nửa đêm về sáng ngày 3/29/09, thấy có ai đánh thức. Sáng sớm, hỏi Bà Nhật Ký . Không phải Bà. Thì ra, có lẽ, Hùng. Rồi điện thoại cho Phước. Rồi ba người cùng khóc. Nên buồn cả ngày, từ đó. Nên mở chai rượu quý dành cho Hùng ra uống. Một mình.)


Phân ưu

Biết được tin buồn qua Thông Báo của DIỄN ĐÀN CSVQGHC & THÂN HỮU


Toàn thể CSV/QGHC Ban Đốc Sự Khóa 13
xin thành kính chia xẻ nỗi đau buồn to lớn và thương tiếc vô vàn
với
chị Vũ Công Hùng , các cháu, và toàn thể tang quyến
Nguyện cầu Linh Hồn Anh Vũ Công Hùng
sớm được về hưởng Nhan Thánh Chúa.

**
Lê Châu Lộc, Cung Trọng Bảo, Phạm Xuân Huy, Đặng Mạnh Hùng,
Ngô Ngọc Trác, Nguyễn Thị Giêng , và Cao Xuân Thức ...

Phân ưu


Click to enlarge

Email chia buồn từ bốn phương 3

Vĩnh ơi, Tề ơi, Vàng ơi và các Bạn ĐS14 thân mến,

Vì bận việc nhận tin trễ qua e-mail của Vĩnh, Tề, Vàng được biết Vũ Công Hùng đã ra đi vĩnh viễn, tôi vô cùng bàng hoàng trước tin buồn: Bạn Vũ Công Hùng đã mất .

Bạn Vũ Công Hùng linh thiêng xin hãy nghe tâm sự tiếc thương của bạn bè. Bạn đã vội ra đi trong mùa chay thánh, mùa kỷ niệm cuộc khổ nạn của Chúa Jesus, chúng tôi nguyện cầu Thiên chúa nhân lành , mở lượng bao dung để linh hồn bạn được an lạc trên nước trời

Xin chia buồn Chị Phước và các cháu . Xin Thiên Chúa nhân lành ban nguồn an ủi đến Chị và các cháu trước sự mất mát to lớn này .

NTHùng, ĐS14, Sacramento, CA

***

Thăm bạn Thế Vĩnh.

Nhờ bạn chuyển đến gia đình thân nhân của Vũ Công Hùng, người bạn vừa qua đời lời thành kính phân ưu. Xin câu nguyện linh hồn bạn Công Hùng sớm được siêu thóa và về Nước Chúa

Ngô Minh Sơn, ĐS14

Tiếc thương 17

Kính gởi chị Phước. Trước mất mát to lớn nầy, anh Hùng đã từ giã chúng ta về cùng Thiên Chúa, tôi và gia đình xin cầu nguyện cho anh Vũ Công Hùng được nhiều hồng ân khi về cõi thật, nơi nước Thiên Đường. Xin có lời chia buồn cùng Chị , Các Cháu và Gia Quyến. Xin có đôi lời cùng anh Hùng:

Monday, March 30, 2009

Tiếc thương 16


Kinh Anh Vĩnh,
Trước hết xin giới thiệu với Anh, tôi là Dương Thị Hằng, độc giả của Web docsu.blogspot.com xin được bày tỏ lòng thương tiếc khi hay tin Anh Trang chủ Vũ Công Hùng vừa qua đời . Đối với Anh Hùng mặc dù chưa từng quen biết nhưng tôi còn nhớ hơn một năm trước khi tôi viết đôi dòng qua bài "Ngơ Ngẩn Một Vầng Trăng" để ghi lại nỗi cảm xúc nhân đọc bài thơ "NHỮNG CHIẾC GHẾ CÒN BỎ TRỐNG" của nhà thơ Trấn kiêu Bạc và gởi đến Anh Hùng thì chỉ trong vòng một tiếng đồng hồ sau là thấy anh ấy post lên Diễn Đàn rồi.
Sự đáp ứng nhanh chóng của Anh ấy đã nói lên mối lưu tâm nhiệt thành đối với những người tham gia web thường xuyên hay nhất thời . Đó là một niềm vui mà tôi khó quên về vị Trang Chủ này. Trong niềm xúc động , tôi viết nên bài thơ "Nhớ Một Vầng Trăng" như một nén hương lòng kính tiễn đưa Anh Vũ Công Hùng được yên nghỉ an bình trong Hồng Ân Thiên Chúa . Và sau cùng, xin chúc anh và gia đình được nhiều may mắn và dồi dào sức khỏe Kính thư,
DTHằng.


Tiếc thương 15

Click to enlarge

Email chia buồn từ bốn phương (2)

Kính chị Hùng Vũ

Được tin anh vừa giã từ gia đình và bè bạn để vĩnh viễn ra đi, vợ chồng tôi xin chân thành chia buồn cùng chị và các cháu. Đây là một sự mất mát lớn lao cho gia đình và các bạn bè nơi Diễn Đàn mà anh đã tạo ra.Cầu xin linh hồn anh sớm hưởng Nhan Thánh Chuá

Lien N Nguyen và Dương Thị Tuyết Nhung
**

Rất xúc động khi nghe tin bạn Vũ Công Hùng đã qua đời.

Anh ra đi là một mất mát lớn lao của đại gia đình cựu sinh viên QGHC.

Anh đã khởi xướng cùng tốn rất nhiều công sức để duy trì và phát triển trang web QGHC hầu bạn bè có thể nói là gần như khắp nơi trên thế giới có thể liên lạc, trò chuyện, tâm sự cùng nhau cũng như chia sẻ những sáng tác văn thơ giúp cho cuộc sống tha hương bớt tẻ lạnh.

Vĩnh biệt Hùng. Cầu chúc anh sớm được hưởng Nhan Thánh Chúa.

Xin thành kính chia buồn cùng chị Hùng và các cháu cùng tang quyến.

Nguyễn Ngọc Cường, ĐS 14, NY.

**

Tiếc thương 14

Tiếc thương 13

Click to enlarge

Tiếc thương 12

Click to enlarge

Email chia buồn từ bốn phương

Chiều nay đi làm về thì nghe nhà tôi nói anh Vàng gọi cho biết anh Hùng đã đi rồi, tôi lật đật mở trang Web DS14 thì thấy những giòng thơ thương tiếc, thật là buồn khi thấy trang Web còn đấy mà người khai sanh ra nó đã vĩnh viễn ra đi . Không biết ngoài những lời chia buồn anh em mình có định đóng góp để mua vòng hoa và phúng điếu hay không, xin anh mail cho tôi biết .

Thân,
Cẩm Diệp

**

Thế là Vũ Công Hùng, người bạn thân thương của ĐS 14 và Diễn Đàn đã ra đi.

Cầu xin linh hồn của Hùng được yên lành trong giấc ngủ tuyệt vời của Hồng Ân Thánh Chúa.

Xin Vĩnh chuyển giùm lời chia buồn của tụi mình đến Chị Hùng và hai cháu cùng toàn tang quyến.

Nguyễn Văn Bính, ĐS14

**

Nhớ bạn

Thật là bàng hòang khi được hung tin Vũ Công Hùng đã vĩnh từ giã cõi đời, bạn bè thân hữu... ra đi. Mới hồi nào Hùng đón nhận tôi vào Diễn Đàn chung vui với bạn bè thấm thoát đã năm sáu năm qua.

Mới ngày nào Hùng nhanh nhẹn điều khiển chương trình một cách linh động tuy đôi lúc có bất đồng ý kiến nhưng với tinh thần kiên nhẫn, bản tính hiền lành nhường nhịn của Hùng, Diễn Đàn vẫn giữ được không khí thân tình, linh họat vui tươi. Thật quá phũ phàng, cuộc đời như bóng câu qua sổ, năm sáu năm quen biết Hùng trôi qua nhanh như một giấc mơ.

Chúc cho linh hồn bạn tôi được sớm về nước Chúa

Trọng Đạt

**

Xin bày tỏ lòng tiếc thương trước sự ra đi của Hùng Vũ. Đây là một sự mất mát lớn lao chẳng những của gia đình bạn mà còn cho tập thể CSVQGHC. Xin chân thành chia buồn cùng chị Phước và các cháu. Cầu nguyện hương hồn Hùng được an bình trong nhan Thánh Chúa.

Nguyễn Tấn Phát, ĐS11

**

Tôi rất buồn khi nghe tin anh Hùng Vũ vừa ra đi! Xin nhờ anh chuyển lời chia buồn thống thiết đến Chị HùngVũ và các cháu cùng gia đình Đốc Sự 14.

Trần Ngọc Danh, ĐS17

**

Anh Lan Đàm điện thoại cho hay: "Trước khi ra đi, Hùng đã ôm từng người trong gia đình, chị Phước, cháu Uyên và cháu Vi và thều thào với từng người bằng Anh ngữ: "I love you. Ý của Hùng là muốn được hỏa thiêu và đem tro về để cạnh tro của cháu đầu lòng" cũng tên Vi như cháu Út. Vi Lớn chết lúc mới 4 tuổi trong một tại nạn xe cộ ở Sài Gòn sau 30 tháng Tư, 1975. Cái chết của Vi Lớn chắc hẳn đã để lại những đau xót khó quên về đứa con Hùng yêu quý.

Lan Đàm


**

… Sáng nay ở Tampa, tự nhiên trời mưa sùi sụt từ đêm qua. Tôi không đi bộ ra ngoài được như thường lệ, nên mở trang Web NAF sớm....và bàng hoàng được tin Hùng Vũ đã ra đi.

Ôi thôi!
Vô cùng thương tiếc người bạn đã cùng tôi có quá nhiều kỷ niệm từ những ngày đầu tiên Hùng sáng lập trang Web này mà tôi đã nhiệt tình hăng hái hợp tác cùng với Hùng. Đến khi Hùng báo bị bệnh, ngỡ rằng Hùng bị cảm bình thường. Tôi đã thăm hỏi và hướng dẫn Hùng uống thuốc men. Nào ngờ...

Hôm nay
Xin cầu nguyện cho Hùng được mãi mãi bình an trên Nước Chúa. Và xin chia buồn cùng Chị Phước và các cháu trong hoàn cảnh này. Xin Chúa giúp cho Chị và Gia đình.

Dương Quân

**

Từ dạo Anh Vũ Công Hùng vào bệnh viện, tôi không dám mở Diễn Đàn DS 14 vì sợ có ngày đọc tin Anh Vũ Công Hùng ra đi. Nhưng tối nay tôi lại mở Diễn Đàn với đầu Bản Tin là tin Anh Vũ Công Hùng đã thật sự ra đi. Nỗi lo sợ của tôi đã thành một sự thật rất bi thảm.

Tuy nhiên, trong sự thật bi thảm đó, tôi còn tìm được những chứng tích hào quang của Anh Vũ Công Hùng. Anh Vũ Công Hùng sẽ được tưởng nhớ như một cựu sinh viên QGHC rất trân trọng gia đình và tình đồng môn. Qua việc sáng lập Diễn Đàn DS 14, Anh Vũ Công Hùng còn chứng tỏ được tài năng hiếm quí của Anh trong một lãnh vực rất mới và rất xa lạ với những người bằng tuổi Anh.

Xin cầu mong Chị Vũ Công Hùng / Phước và các con cháu tìm được an ủi trong niềm tin Phục Sinh. Rồi sẽ có ngày gặp lại nhau trên Thiên Đàng.

Ngọc Oanh
DS 9 KTCH8/ NG

**

Vẫn biết bệnh tình của Anh Vũ Công Hùng rất nghiêm trọng nhưng tôi cứ hy vọng y khoa Hoa Kỳ có khả năng đưa Anh Hùng trở lại đời sống bình thương với chúng ta. Tôi hết sức buồn khi biết tin Anh Hùng đã ra đi. Tôi xin chia buồn với Anh Vĩnh, với Diễn Đàn NAF, và nhờ Anh Vĩnh chuyển lời chia buồn của tôi đến với Chị Vũ Công Hùng và các Cháu, con Anh Hùng, cùng Tang Quyến. Nguyện cầu Hương Linh Anh Vũ Công Hùng sớm được an bình trong Nước Chúa.

Trần Việt Long

Tiếc thương 11

Phân ưu

Tiếc thương 10

Tiếc thương 09

Click to enlarge

Phân ưu



Tiếc thương 08

Sunday, March 29, 2009

Tiếc thương 07

Click to enlarge

Tiếc thương 06

Click to enlarge

Tiếc thương 05

Click to enlarge

Tiếc thương 04

Click to enlarge

Tiếc thương 03

Click to enlarge

Tiếc thương 02

Tiếc thương 01


Click to enlarge

Điện thư cuối cùng

Nhớ các bạn nhiều lắm
nhưng không thể nán lại lâu.

Xin cho hỏi thăm tất cả.


(Vũ Công Hùng gửi Nguyễn Thế Vĩnh ngày 11 tháng 10, 2008)

Cấp báo


Click to enlarge

Saturday, March 28, 2009

Sắc thái độc đáo trong

Nhạc Enya

Giữa cái thế giới ồn ào nóng sốt và giật gân của nhạc rock, bỗng xuất hiện những dòng nhạc lướt nhẹ vào cõi thiền. Âm điệu nhẹ, thanh thoát, cũng đầy quyến rũ, nhưng không kích động dìm người nghe vào những đam mê trần tục nhưng đưa người nghe thoát ra một thế giới siêu hình nào đó. Buồn nhưng không bi lụy. Đẹp nhưng mênh mang.

Đó là những dòng nhạc của Enya.

Enya, một ca sĩ, một người trình tấu và là một nhạc sỹ, sinh ngày 17 tháng Năm , 1961 tại Gaoth Dobhair, còn gọi là Gweedore, quận Donegal, Ái Nhĩ Lan. Giới truyền thông còn gọi cô là Enya Brennan.

Năm 1980 Enya bắt đầu theo ngành ca nhạc tham gia vào ban nhạc của gia đình cô, nhưng không bao lâu tách riêng. Album Watermark ra mắt năm 1988 giúp tên tuổi Enya vang xa ra quốc ngọai.

Sau đó Enya tiếp tục thành công trong thập niên 1990, và 2000. Album A Đay Without Rain gặt hái số bán kỷ lục: 15 triệu bản. Năm 2001 cô đoạt danh xưng Nữ Nghệ Sỹ lớn nhất thế giới. Tại Ái Nhĩ Lan cô là nghệ sỹ đơn lập có số đĩa bán chạy nhất và được ghi nhận có số lượng bán ra nước ngoài đứng hàng thứ nhì chỉ sau ban nhạc U2. Cho đến năm 2009, số lượng đĩa nhạc của cô bán ra là 77 triệu.

Nhiều giám đốc sản xuất những bộ phim lớn đã mời Enya sáng tác nhạc nền cho phim, gần đây nhất là bộ The Lord of the Rings, The Gladiator... Nhạc của Enya đã làm tăng giá trị cho những cuốn phim này không nhỏ.

Trong những buổi suy tư, thiền tịnh, tĩnh tâm... người tổ chức thường dùng nhạc Enya để tạo nên bầu khí thanh thoát.


Lạ một điều, nhạc của Enya không quảng cáo rầm rộ. Nhưng ngay ngày đầu phát hành số bán ra rất cao; dường như những người mộ mến nhạc cô đã chờ sẵn từ rất lâu.

Đưới đây xin giới thiệu cùng quý anh chị hai bản tiêu biểu, "May It Be" do Lisa Kelly hát, và "Amarantine" do chính Enya trình diễn. Nhớ đeo headphone để nghe âm thanh nổi sắc xảo hơn.

(Điền Thảo)




Nhớ đeo headphone để nghe âm thanh nổi sắc xảo hơn.

Friday, March 27, 2009

Tặng quà thương binh quả phụ còn ở VN

THIỆP MỜI

Để tạo một chút qùa gửi đến Thuơng Binh và Qủa Phụ
trong dịp tuởng nịêm Quốc Hận 30 tháng Tư,
trân trọng kính mời quý vị Cựu Chiến Sĩ và đồng huơng
đến tham dự buổi giới thiệu cuốn tạp ghi
"BÔN-SA CÓ GÌ LẠ KHÔNG, EM?" của tác giả Chu Tất Tiến.


Địa điểm: hội truờng Vịêt Báo
đuờng Moran, thành phố Westminster.

Thời gian: từ 1 đến 4 giờ ngày Thứ Bảy
25 tháng 4 năm 2009.

Các Diễn giả:
Nhà Văn Huy Phuơng, Tiến Sĩ Mai Thanh Truyết,
và Bác Sĩ Bùi Xuân Duơng.

Điều hợp chuơng trình: Đốc Sự Đặng Mạnh Hùng.

Tất cả tiền thu đuợc, sau khi trừ chi phí,
sẽ đuợc trao tặng Hội H.O Cứu Trợ Thuơng Binh và Qủa Phụ
do Cựu Trung Tá Hạnh Nhơn điều hành.
Sự tham dự của quý vị sẽ là một món qùa rất quý giá
dành cho anh chị em Thuơng Binh và Quả Phụ
hiện đang sống lầm than tại quê nhà.

Trân trọng kính mời
BTC

Thursday, March 26, 2009

Giáo sư Stephen B. Young nghĩ gì về VN hiện nay

Diễn Đàn xin đăng lại bài phỏng vấn GS Stephen B. Young do báo Việt Luận thực hiện vì nhận thấy những điều ông nói rõ ràng là một lời cảnh tỉnh đối với những người đang mắc mưu CS đâm bị thóc thọc bị gạo làm suy yếu ý chí chung của cộng đồng người Việt hải ngoại. Về những vấn đề khác ông cũng tỏ ra rất thành thật khi bầy tỏ ý nghĩ của ông với chúng ta. Rồi ra công an Việt Cộng, bộ phận thân Tàu Cộng của Hà Nội, sẽ lại mua chuộc vài tên bồi bút ở hải ngoại đả phá ông để hạ một người như kẻ thù của họ. (Diễn Đàn)

TÌNH HÌNH VIỆT NAM NGÀY NAY
Thế lực cầm quyền, đối ngoại, biểu tình, Hoàng Sa và Trường Sa
Lời Giới Thiệu: Giáo sư S.B.YOUNG là người rất quen biết của Cộng đồng Việt nam hải ngoại . Trước 30 / 04 / 1975, ông là Phụ tá đặc biệt cho Đại sứ Hoa kỳ tại Sài gòn . Về Hoa kỳ, ông giảng dạy tại Đại học Luật khoa Harward và làm Phó khoa trưởng . Sau đó, ông về sanh sống tại Minnesota và giảng dạy văn hóa việt nam tại Đại học Hamline . Hiện nay, ông làm Tổng Giám đốc một Tổ chức Tài chánh và Tín dụng quốc tế . Ông cho xuất bản một số tác phẩm biên khảo về văn hóa, lịch sử Việt nam . Quyển có giá trị cao là "Nhân quyền ở Tàu và Việt nam", "Cuộc chiến thắng bị bỏ lỡ" . Trong gần đây, ông có xuất bản nhiều tác phẩm nghiên cứu chung quanh đề tài “ kinh tế và đạo lý ” . Xin mời quí độc giả theo dỏi bài phỏng vấn của Việt Luận dưới đây .
VL. Theo ông thì trong năm 2007 những thành quả dân chủ nào tại Việt Nam được xem là đáng chú ý nhất?

S.YOUNG . Theo tôi, trong năm 2007, trong những sự việc xảy ra ở Việt nam đáng chú ý và hoan nghênh hơn hết là những cuộc biểu tình của tuổi trẻ ở Sài gòn và Hà nội chống sự bành trướng của Trung Quốc xâm chiếm lảnh thổ Việt Nam. Từ 1975, Việt nam chưa có xảy ra cuộc biểu tình nào vì một chính nghĩa chính trị . Hai sự việc mà đảng Cộng sản sợ nhứt là một ông Gorbachev sẽ lên làm Tổng Bí thơ và thanh niên, sinh viên sẽ xuống đường như vụ Thiên An Môn ở Bắc Kinh. Nổ lực của cấp lãnh đạo đảng là dùng đủ mọi khả năng và mọi thủ đoạn để tránh hai sự việc đó xảy ra .

VL . Ông có nghĩ là cộng đồng người Việt tại hải ngoại đã hỗ trợ phong trào dân chủ trong nước đúng mức chưa?

S.YOUNG. Xin lỗi mà nói từ 1975 đến hôm nay, cộng đồng người Việt hải ngoại chưa bao giờ hổ trợ công cuộc tranh đấu cho dân tộc, cho tổ quốc một cách đúng mức . Tôi đã dám thật lòng nói bao nhiêu lần mỗi khi có dịp thăm viếng, nói chuyện với cộng đồng người Việt ở Úc Châu, Pháp, Bỉ, Canada, Mỹ, là cộng động người Việt ở hải ngoại nên cố gắng tự mình chế giảm bớt sự chia rẻ, sự ganh tị người này với người kia, đè nén bớt tham vọng cá nhân, phải mình mới làm lãnh đạo, vân, vân…

Thí dụ, ở trong nước, những người dân chủ cần phương tiện tài chánh để hoạt động . Ở hải ngoại, có nhiều người Việt nam thiếu gì tiền bạc vì có nhiều người Việt nam làm ăn giàu có lắm rồi, nhưng cộng đồng nói chung chưa thiệt tình sẳn lòng đóng góp đều đặn để yểm trợ những người tranh đấu ở trong nước và nhứt là những người vì tranh đấu, biểu tình bị tù tội, gia đình lâm vào cảnh khó khăn . Như vậy, bộ máy Công an cộng sản không có gì để lo sợ ở sức mạnh của cộng đồng người Việt hải ngoại. Hơn nữa, họ còn đánh giá cộng đồng ấy là bất lực, thiếu khả năng, làm việc không có hiệu quả.

Thí dụ thứ hai . Công An sợ Cộng đồng người Việt Nam hải ngoại sinh hoạt thành một lực lượng chính trị đối với các Chính phủ dân chủ ở Úc, Canada, Mỹ, Âu Châu để ảnh hưởng đến các vị Dân cử và Chính phủ các nước này sẽ nghe theo các yêu cầu của Cộng đồng người Việt đối với quê hương . Nhưng vì những tranh chấp thường vô ích vì phe cánh với nhau mà vô tình làm suy mất uy tín nhau, vân vân,…Rồi Cộng đồng Việt Nam hải ngoại bị chia rẻ thành nhiều mảnh vụn, nhiều phe nhóm, có cả những nhóm nhỏ xíu, và, vì lý do đó mà không có ảnh hưởng lớn đúng mức lẻ ra phải có.

Thí dụ thứ ba . Sự ganh tị cá nhân, sự tham vọng cá nhân, tạo điều kiện rất thuận lợi cho nhóm Phản gián của Công an để họ phá các tổ chức có uy tín và hoạt động ít nhiều hiệu quả. Họ nhằm đánh mạnh những người lãnh đạo có uy tín, có lòng yêu nước thiệt, có tài giỏi và biết làm việc. Công an đã nói với tôi rằng: “Ở hải ngoại, không có tổ chức nào mà không có chúng tôi ” . Nếu họ không chụp mủ vu cáo anh này hoặc xúi bà vợ của anh kia ghen phá, ngăn cản không cho anh ấy tham gia tranh đấu . Nếu thấy ngăn cản không được “việc anh đang làm ”, thì họ mua chuộc vợ, em ruột, bố mẹ bằng cách đề nghị những cơ hội làm ăn tại Việt nam . Họ có thể giới thiệu một cô hay một bà đẹp và thông minh cho anh . Nếu anh không thích gái đẹp, thì họ tìm cách cho người sẳn quen với vợ anh để nói với vợ anh là anh ấy có “mèo”. Thiếu gì cách làm để phá uy tín, làm hoang mang tinh thần của những người có tiếng là sáng suốt, có tâm hồn tốt, có thiện chí.

VL. Ông nhận xét thế nào về những áp lực chính trị quốc tế hiện nay đối với Hà Nội trên lĩnh vực nhân quyền và dân chủ? Và phản ứng của Hà Nội ra sao?

S.YOUNG. Nói thật mà buồn . Bộ Chính Trị Đảng Cộng sản không sợ áp lực chính trị quốc tế. Họ có Trung Quốc ủng hộ sau lưng mà. Họ đã dâng đất, dâng biển để mua chuộc rồi . Ngày nay, người cộng sản Hà nội chỉ muốn lấy tiền cho nhiều, cho họ sống sung sướng bù lại trước đây cực khổ, cho con cái ra ngoại quốc ăn học để ngày mai thay thế họ tiếp tục cầm quyền nữa. Họ đâu có muốn làm chính trị thật sự lo cho dân gì nữa. Các tôn giáo đã có một thỏa thuận tạm thời với Đảng để được hưởng một chút tự do tôn giáo như làm lễ, xây chùa, nhà thờ, in kinh sách... Trong nước không có lực lượng chính trị nào mà Cộng sản lo sợ. Vì vậy, nếu người Việt ở nước ngoài muốn gây áp lực đối với Đảng cộng sản, thì họ vận động ai? Lấy đâu làm sức mạnh? Kinh tế phát triển mạnh và đương lên . Đảng và Nhà Nước có đủ tiền trả lương Công an cao để Công an sẳn sàng ngăn chặn những ai đòi hỏi tự do, nhân quyền,có ảnh hưởng xấu đến chế độ. Họ còn sợ gi nữa chớ?

VL. Chính sách của Hà Nội bị ảnh hưởng của Trung Quốc rất nhiều, ông có thể cho biết thêm về điều này? S.YOUNG. Theo tôi, một nhóm của Đảng đã quyết định làm đệ tử trung thành của Đảng Cộng sản Tàu để dựa vào thế lực của Trung Quốc làm cho các đảng viên cộng sản Việt nam khác nể sợ, không dám tranh giành quyền lực với họ . Như vậy, Đảng phải cởi mở đối với dân chúng về mặt kinh tế xã hội. Đảng làm kinh tế thị trường để dân chúng, ai có điều kiện làm ăn, cứ làm ăn, làm giàu nhưng phải có chổ dựa thì công an không đàn áp, hà hiếp như hồi xưa . Nhưng về chế độ cai trị, Đảng cộng sản vẫn không nhượng một chút nào. Trung Quốc khéo lắm . Họ cho phép Việt nam chơi với Mỹ một chút ít, chớ không nhiều, như để Việt nam được cởi mởi về kinh tế. Và đó cũng là cơ hội để cho Trung quốc làm giàu trên đất nước Việt nam . Dĩ nhiên Đảng cộng sản Việt nam cũng kiếm được chút tiền lì-xì của ông chủ Tàu trong các vụ làm ăn này.

VL. Ông có nghĩ là trong nội bộ Đảng Cộng Sản VN hiện đang chia làm hai nhóm – nhóm thân Mỹ và nhóm thân Tàu, và theo ông thì nhóm nào đang chiếm ưu thế hơn?

S.YOUNG. Đúng . Theo tôi thì có hai phe thực sự. Phe chống Trung Quốc thì gồm có những người có lương tâm biết yêu Việt nam . Họ muốn đi với Mỹ nhiều hơn để bảo vệ quê hương. Phe này gồm đa số những người trẻ trong Đảng và Quân đội và có cả một số không nhỏ có chức vụ cao trong Chính phủ . Nhưng, phe đi với Trung Quốc thật sự nắm quyền Công an . Chúng ta chưa quên vụ T2 tới nay không có ai đủ sức giải quyết nghiêm minh đúng theo luật pháp. Vậy ai cũng thấy rỏ hiện nay ai cai trị thật sự Việt nam? Người Việt nam hay người Tàu ? Cả Đại tướng anh hùng Điện biên phủ Võ Nguyên Giáp cũng phải chịu dơ hai tay đầu hàng để được sống yên thân tuổi già!

VL. Ông dự đoán thế nào về tình hình chính trị của VN trong thời gian sắp tới? S.YOUNG. Phe nhóm Công an theo Trung Quốc sẽ có đủ thế lực để điều khiển thực hiện các quyết định lớn cho 5 năm nữa.

VL. Trong năm cuối cùng còn tại chức, theo ông, chính sách của TT Bush có thay đổi gì nhiều đối với VN hay không?

S.YOUNG. Ông Bush sẽ không lưu ý tới Việt nam chút nào đâu . Ông sắp về hưu và đã bắt đầu không lo làm việc nữa.

VL. Ông có nghĩ là Hoa Kỳ đã có một chiến lược ngắn và dài hạn cho vùng Đông Nam Á trong đó có VN?

S.YOUNG. Sự lo ngại số một, số hai, số ba, số bốn của nhóm Ông Bush là chiến tranh Iraq và chiến tranh chống khủng bố Al queda và Taliban. Ngoài những điều đó, không còn bao nhiêu sự tính toán, sự lo ngại, cho các công việc khác. Ở Á châu, nhóm Bush lo nhất về Bắc Hàn có bom nguyên tử . Trung Quốc, Nhật Bản, Đông Nam Á, Hồi giáo thường là công việc của các viên chức trung cấp ở Bộ Ngoại Giao lo và trách nhiệm nhiều hơn.

VL. Theo ông thì người Việt trong và ngoài nước cần phải làm gì trong lúc này để gây áp lực buộc chính quyền đảng CSVN phải cởi mở hơn, dân chủ hơn?

S.YOUNG. Tổ chức sinh viên, lao động, nghiệp đoàn, thành phần trí thức tìm lấy những chủ trương bí mật của Đảng, tài sản của Đảng, đem phổ biến cho dân nghe và biết. Giải thích cho dân chúng hiểu rỏ những cái sai trái gây thiệt hại đến các quyền lợi chánh đáng của dân mà lẽ ra ở một nước tự do dân chủ, người dân được luật pháp bảo vệ . Gây sự chia rẻ trong hàng ngũ Đảng Cộng sản. Phơi bày những hành vi tham nhũng, hà hiếp dân chúng của các đảng viên từ địa phưong như tỉnh ủy, huyện ủy,… để cho họ mất uy tín lãnh đạo . Cụ thể, thiết lập hồ sơ các vụ tham nhũng, hồ sơ tài sản, nhà cửa, các công ty của cán bộ đảng viên, và công bố những sự thực đó lên internet để thiên hạ biết rỏ ở Việt nam ngày nay, ai có tiền, ai vẫn nghèo đói, rách rưới hơn trước đây nhiều . Tố cáo, vạch mặt những đảng viên Công an hoạt động ở hải ngoại, xâm nhập đánh phá Cộng đồng người Việt ở khắp nơi.

VL. Sang vấn đề Hoàng sa và Trường sa, ông có nghĩ là Trung Quốc chiếm 2 hòn đảo này nằm trong chiến lược lâu dài muốn làm bá chủ vùng biển Thái Bình Dương?

S.YOUNG. Đúng lắm . Từ 20 năm nay, Trung Quốc có chiến lược mới đối với Đông Nam Á. Trong lịch sử 3,000 năm Trung Quốc chưa bao giờ có một kế hoạch chiến lược như vậy. Họ chỉ đánh vào Việt nam vài lần rồi rút về phía bắc. Nhà Nguyên đánh Miến điện một lần . Thế thôi. Bây giờ, họ dựng lên và nuôi dưởng một Chính phủ tướng lãnh để thay mặt họ cai trị dân Miến điện, họ làm cố vấn cho Hun Sen tại Cam- bốt, ủng hộ phe mạnh trong Đảng Cộng sản Lào, và “ ăn nói ngon ngọt ” với Nhà Vua Thái Lan . Quốc Hội Trung Quốc phê chuẩn luật biển của họ nói rằng cả Biển Nam Hải là lãnh thổ nội địa của Trung Quôc. Hồi xưa có Bắc Triều nhưng đã có nói ngang ngược như vậy không? Bây giờ Trung Quốc đương nổ lực phát triển và canh tân hải quân cho lớn mạnh, có khả năng tác chiến cao . Để làm gì ? . Tôi nghĩ ai cũng có thể trả lời rồi!

VL. Tại sao phản ứng của chính quyền CSVN rất dè dặt, phản ứng lấy lệ và thậm chí ngăn cản sự biểu tình chống Trung quốc của giới trẻ tại Saigon và Hà Nội?

S.YOUNG. Theo tôi, trong Đảng hiện nay, có nhiều đảng viên không đồng ý với nhóm cầm quyền ở trên muốn nhờ thế Trung Quốc để tiếp tục cầm quyền lâu dài và cai trị Việt nam dể hơn, theo đường lối giống Trung quốc, nên họ mới dám cho phép sinh viên biểu tình nhưng họ theo dỏi và kiểm soát . Họ phải ngăn chặn để tránh cuộc biểu tình có thể bung lớn ra mà họ không kiểm soát được nữa. Và đó cũng là một “dấu hiệu” cho phía Trung Quốc lo ngại để không ép Đảng cộng sản Hà nội quá mức.

VL. Trước hoàn cảnh thực tế hiện nay, theo ông thì cộng đồng người Việt trong và ngoài nước phải làm gì để có thể lấy lại chủ quyền của hai đảo Hoàng sa và Trường sa? Và pháp lý có cho phép lấy lại được không khi Việt nam có một chế độ khác, như một chế độ dân chủ tự do?

S.YOUNG. Phải có một số người Việt Nam là đại diện thiệt tình của Việt nam ở trong và ở ngoài nước, nói với tính cách long trọng, các lý do tại sao Chính phủ Hà nội không phải là đại diện chính thức của nhân dân Việt nam. Họ không có đủ tư cách chính thống để nhượng cho Trung Quốc bất kỳ cái gì . Mọi việc nhượng ngày nay chỉ là sự thỏa thuận trong bóng tối. Như buôn bán chợ đen . Và nói thêm rằng một ngày nào đó, Việt nam có đủ tư cách pháp lý chính thống sẽ lấy lại Hoàng Sa và Trường Sa . Thí dụ, “ Đại diện Việt nam ” nói ở trên đây gởi thơ cho Liên Hiệp Quốc, cho Tòa án quốc tế, cho các Chính phủ thế giới, …kêu gọi sự quan tâm giúp đở Việt nam, một thành viên cộng đồng thế giới, bị nước láng giềng dùng bạo lực quân sự xăm chiếm lãnh hải và lãnh thổ . Tôi xin nhấn mạnh rằng mọi cuộc xăm lăng, mọi sự chiếm lấy đất đai bất hợp pháp thì không bao giờ có hiệu lực đối với luật pháp quốc tế. Nước nào bị mất tài sản quốc gia thì nên biết giữ chính nghĩa về pháp lý của mình . Không bao giờ nên thừa nhận chính thức hoặc công khai sự gian manh ăn cướp của kẻ láng giềng hung bạo .

Câu Truyện Về

Kính mời quý vị, quý bạn đọc một truyện ngắn Câu Truyện Về Một Họa Phẩm Đắt Giá vừa thực vừa hoang đường nhưng đầy tính triết lý. Vì thần linh không nói được, không viết được - cho nên muốn hiểu thần linh thì phải qua một trung gian- trong truyện này là sứ giả được gửi đi. Đôi khi sứ giả nói ngược lại ý muốn của thần linh hoặc bịa đặt ra lời nói của thần linh mà con người không hề hay biết và tưởng đó là ý muốn của thần linh - khiến câu truyện ở đây mang ý vị khôi hài. Đào Văn Bình
Việc phát hiện ra bức tranh cuối cùng của nhà danh họa Lê Thành đã đẩy cả đất nước vào một cơn sốt. Họa sĩ Lê Thành chết cách đây hai mươi năm lúc ông khỏang ngòai sáu mươi và đã cống hiến cả đời mình cho nghành hội họa. Ở tuổi bốn mươi tranh của ông không được chú ý cho lắm. Ông đã toan từ giã cái nghiệp của một họa sĩ tự do để xin làm cho một hãng chuyên vẽ quảng cáo. Nhưng với sự an ủi, khuyến khích và nâng đỡ của bạn bè, ông cố gắng cầm cự với cái túng, cái nghèo mà không đi làm. Nhưng không hiểu sao tranh của ông ở tuổi năm mươi bỗng được người ta chú ý. Song điều trớ trêu là không phải giới thưởng ngọan trong nước chú ý mà là những du khách ngọai quốc đủ thứ từ Mỹ, Nhật, Pháp đến Canada. Họ mua tranh của ông về làm quà tặng cho bạn bè, trưng bày trong nhà cũng có, do đó ông bắt đầu nổi tiếng. Ở vào giai đọan này đời sống ông tương đối dễ chịu, tiền bạc rộng rãi để có dịp an ủi bà xã, bọn nhỏ và bù khú với bạn bè. Cái tâm lý “Bụt nhà không thiêng” muôn đời vẫn là thế đó. Nằm cạnh một thiên tài gần nửa cuộc đời không hề hay biết cho đến khi Tây, Nhật nó khen bà con ta mới quýnh lên. Đầu tiên là giới truyền thông đổ xô tới phỏng vấn và bốc ông lên tận mây xanh.. Rồi sau đó là các nhà sưu tầm tranh tìm đến gạ gẫm, đặt cọc trước để ông vẽ tranh. Nhưng tới mức này thì mình làm sao cạnh tranh được với các lái tranh Mỹ, Nhật? Cho nên hầu hết tranh của ông vẽ vào những năm cuối cùng của cuộc đời đều lên máy bay, bay về Paris, Nữu Ước, Tokyo hết. Khi các lái tranh quốc tế hay tin ông mất đi thì họ mới làm một cuộc triển lãm ở Paris. Lúc đó thì các nhà phê bình mới thấy ông quả là một họa sĩ lớn của thời đại. Tranh ông pha trộn giữa các trường phái vừa hiện thực, siêu thực vừa trừu tượng, thỉnh thỏang chấm phá vài nét kỷ hà thật độc đáo. Màu sắc tranh của ông được mô tả là linh động và tỏa ra một cái gì đó rất lãng mạn, êm đềm nhưng làm người xem phải suy nghĩ về chiều sâu triết lý của nó. Dĩ nhiên tới mức này thì tranh ông lên giá vùn vụt, thậm chí có bức được trả tới giá vài trăm ngàn đô-la. Và người ta cũng còn đổ xô về Việt Nam để lùng kiếm tranh ông khiến gây cảnh mua bán tranh giả cười đau khóc hận. Vậy nếu như việc phát hiện ra bức tranh cuối cùng của đời ông có gây cho đất nước một cơn sốt cũng là lẽ thường, nhất là ở một xứ nhỏ bé như Việt Nam.

Đây cũng cần phải nói rõ bằng cách nào người ta đã tìm ra bức tranh ông vẽ vào giai đọan cuối cùng của đời ông? Số là năm nào cũng vậy, cứ vào mùa Hè ông đều xách mầu, giá vẽ và khung vải, đáp máy bay ra Nha Trang ở chung với một người bạn, vừa để nghỉ Hè, tắm mát vừa sáng tác. Mùa Hè cách đây hai mươi năm thì cũng lập lại một thói quen như vậy. Với tình trạng tài chánh của ông lúc bấy giờ sẽ có người thắc mắc hỏi tại sao ông không ở khách sạn hoặc thuê mướn một biệt thự cho yên tĩnh? Nhưng tính ông lại thích bù khú với bạn bè. Vả lại ông thường nói, ở với bạn bè có cái thú là mình có thể ăn nói vong mạng mà chẳng sợ mất lòng ai vì thằng bạn thân nó có đem chuyện mình nói cho người khác hoặc hại mình bao giờ? Hơn thế nữa ông bạn lại là một nhà thơ thích sống trầm mặc; con cái ở bên Tây, bên Mỹ hết cả nên ông về đây mua một căn nhà, sát bờ biển, vừa đủ ở để dưỡng già. Một nhà thơ ở với một họa sĩ thì chẳng có gì phiền tóai, chứ ông ở chung với một ông bạn nhạc sĩ, đàn ca tối ngày thì chắc ông sẽ điên lên và xách giá vẽ đi chỗ khác. Ngòai ra ông bạn này tính khí cũng hơi bất thường. Tiếp đãi bạn vài ngày xong, ông trao chìa khóa nhà cho bạn rồi lang thang khắp vùng, sáng đi chiều về, có khi đi biền biệt cả tuần không biết chừng cho nên họa sĩ Lê Thành tha hồ vẽ tranh. Tuy nhiên sự sáng tác nhiều khi cũng lắm cái trớ trêu. Lắm lúc nguồn hứng khởi ở đâu nó cứ ào ào chạy tới, có lúc dù không khí êm đềm, vắng lặng, gợi cảm mà ý tứ nó cứ trơ ra cho nên người ta thấy ông chỉ nguệch ngọac. Một ngày có khi chỉ vẽ vài giờ rồi ông quăng cọ đi dạo mé biển hoặc ra ngòai phố tán dóc chơi. Nhưng cuối cùng thì với tài năng của ông, một bức tranh mới cũng được khai sinh. Nhưng rủi cho ông, trước hôm lên máy bay trở lại Sài Gòn, ông bị một cơn chấn động tim. Ông bạn thi sĩ vội vã đưa ông vào bệnh viện cấp cứu rồi xin phép bác sĩ đưa ông về Sài Gòn chữa trị. Nhưng số mệnh của ông đến đây là hết. Chỉ ít ngày sau ông vĩnh viễn ra đi. Sau khi ở lại ít ngày để tham dự đám tang, người bạn thi sĩ quay trở lại Nha Trang và trong lúc vội vã cũng quên thông báo cho gia đình Lê Thành hay là ông có sáng tác một bức tranh hiện vẫn còn để tại Nha Trang.

Trở lại căn nhà mình, ông thi sĩ thấy bức tranh còn đó nhưng bạn ông không còn đó nữa. Đêm ấy ông đem tranh của bạn ông ra đặt tại hàng ba, lúc này cũng đã chan hòa với ánh trăng. Ông cứ vừa uống rượu, vừa ngắm tranh vừa ngâm thơ ông ổng cho đến khi rượu quật ông ngã nằm trỏng trơ dưới sàn gỗ. Ông cứ nằm đó ngủ tỉnh bơ cho dù sương đã xuống nặng và nước thủy triều đã kéo sát vào bờ và những đợt sóng vỗ vào những tảng đá nghe ầm ầm. Hôm sau, có lẽ phải quá trưa ông mới tỉnh dậy. Ông đem bức tranh ra công ty chuyên chở, nhờ đóng gói chở về Sài Gòn. Vì ở lâu trên đất Mỹ cho nên ông nhiễm thói quen đảo ngược họ tên. Thay gì gửi Bà Lê Thành, ông lại viết Bà Thành Lê. Còn về địa chỉ, như một định mệnh hoặc do men rượu còn chuyếnh chóang, thay vì viết 1115 Đường Trần Hưng Đạo, ông viết lộn thành 1511 Đường Trần Hưng Đạo. Gửi hàng xong, ông lảo đảo quay về nhà tiếp tục ngâm thơ, uống rượu, nhớ bạn cho đến khi ông bị cảm thương hàn nhập lý phải chở ông vào nhà thương và tháng sau thì người ta cho biết ông cũng lại ra người thiên cổ.

Còn bức tranh, với cái tên và địa chỉ vô tình viết lộn, cho nên nó đã chui tọt vào kho hàng của Bà Thành Lễ bán bàn ghế, giường tủ nằm cách đó một dãy phố. Có lẽ vì quá bận rộn với đồ gỗ đủ lọai nằm ngổn ngang cho nên cũng chẳng ai để ý đến chiếc thùng gỗ mỏng nằm ở một góc kho. Do đó tấm tranh vẫn còn đó cho đến hai mươi năm sau.

Ở Việt Nam người ta chỉ có thói quen bán “sold” tức bán hạ giá các lọai quần áo, giầy dép, sách vở cũ nhân dịp Tết chứ không có thói quen bán đại hạ giá “big sale” hoặc bán đổ bán tháo “clearance” bàn, ghế, giường, tủ như ở Mỹ. Tình cờ có thằng cháu từ Mỹ về thăm. Nó thấy trong kho bà chứa đủ thứ hàng không tiêu thụ được, nó hỏi sao dì không chịu bán đổ bán tháo đi để gỡ lại chút đỉnh còn hơn tiền để đó là tiền vứt đi. Nghe nó nói thể kể ra cũng có lý cho nên bà bèn quát tháo người làm phải đem lau chùi lại những đồ cũ ế ẩm và treo bảng bán đại hạ giá 50%. Thế là chiếc thùng gỗ mỏng bám đầy bụi, chữ viết trên đó đã phai mờ được lôi ra. Sau khi dùng xà-beng tháo mấy thanh gỗ, ai ngờ lại lòi ra một bức tranh. Bà Thành Lễ vốn chẳng hiểu ất giáp gì về tranh ảnh nhưng cũng thấy ngồ ngộ cho nên ra lệnh đóng khung treo lên tường để vừa làm đồ trang trí, vừa mua vui cho khách. Với tấm bảng đại hạ giá 50%, vả lại đây cũng là dịp sắm Tết cho nên bà con ta đổ tới, mua cũng có, ngắm cũng có, trong đó có một ông trông có vẻ đạo mạo, trạc ngòai năm mươi. Sau khi đảo qua một vòng tiệm, ông dừng lại ngắm bức tranh treo trên tường. Ngắm một hồi lâu, có khi lấy tay sờ, có khi ông lấy chiếc kính lúp trong túi ra kê sát vào tấm tranh, nhất là chữ ký nằm ở góc dưới. Ông nghiêng đầu qua tả, qua hữu rồi vò đầu bứt trán. Cuối cùng thi ông tiến tới bên Bà Thành Lễ hỏi:

- Thưa bà, bà mua bức tranh này ở đâu, hồi nào ạ?

Bà Thành Lễ thành thực đáp:

* Cách đây khỏang hai mươi năm. Không phải tôi mua, mà có lẽ một người bạn nào đó tặng tôi hoặc khách hàng muốn trả nợ tôi bằng cách này không biết chừng.

Ông khách đứng tuổi lại hỏi:

* Thế bà có ý định bán bức tranh này không?

Bà Thành Lễ cười nhẹ đáp:

* Không, vả lại tôi thấy treo ở đó cũng hay cho nên muốn giữ làm kỷ niệm.

Nghe nói vậy người đàn ông nói lời cám ơn, tần ngần ít phút rồi quay gót. Ngày hôm sau ông ta quay trở lại với ba người đàn ông khác. Họ đứng sát vào bức tranh, lấy kính lúp ra rọi, ngắm tới ngắm lui rồi bàn tán cả giờ đồng hồ. Nét mặt của họ tỏ ra rất đăm chiêu và cẩn trọng. Người đàn ông đứng tuổi đó không ai khác hơn là Ông Giám Đốc Viện Bảo Tàng Mỹ Thuật của Thành Phố Sài Gòn. Còn ba người kia là các chuyên viên giảo nghiệm và định giá tranh. Bốn người bàn tán như vậy hơn cả tiếng đồng hồ rồi mới bỏ đi. Sáng hôm sau bốn người này lại xuất hiện cùng với bức thư của Ông Bộ Trưởng Bộ Văn Hóa gửi bà Thành Lễ. Cùng lúc đó thì báo chí trên trang nhất đều loan đi một tin làm chấn động cả nước đó là Bộ Văn Hóa vừa khám phá ra một bức tranh vẽ vào cuối đời của họa sĩ Lê Thành. Bức tranh có thể giá cả triệu Mỹ Kim nhưng không cho biết bức tranh hiện ở đâu. Sau khi xin gặp Bà Thành Lễ, tự giới thiệu mình, ông và ba người đàn ông được mời vào văn phòng làm việc riêng của bà. Sau khi trình bày cặn kẽ câu chuyện, Ông Giám Đốc Viện Bảo Tàng Mỹ Thuật trao phong thư của Ông Bộ Trưởng Văn Hóa cho bà, đại lược nói hiện bà đang làm chủ bức tranh trị giá cả triệu đô-la. Đó là một cái may nhưng tính mệnh của bà cũng có thể bị đe dọa và nhất là nguy cơ đánh cắp bức tranh chuyển ra ngọai quốc. Hơn thế nữa nếu địa điểm này bị lộ ra ngòai, người ta sẽ kéo đến đây gây phiền phức cho công chuyện làm ăn của bà. Do đó Bộ Văn Hóa đề nghị trong khi chờ đợi thương lượng mua lại bức tranh, bà nên đem nó vào khu vực an tòan của Ngân Hàng Thái Bình Dương, phí tổn bao nhiêu chính phủ chịu. Nghe thư trần tình vậy, Bà Thành Lễ thấy câu chuyện không còn là điều rỡn chơi nữa, bà run run đáp:

* Quý ông tính vậy cũng phải!

Khi Bà Thành Lễ nói dứt câu, Ông Giám Đốc Viện Bảo Tàng Mỹ Thuật quay điện thọai và khoảng nửa tiếng đồng hồ sau một chiếc xe bít bùng chạy tới với một tóan an ninh và một vị luật sư của Bộ Văn Hóa. Tấm tranh được hộ tống đưa ra xe rồi tất cả cùng đi tới trụ sở chính của Ngân Hàng Thái Bình Dương. Ngày hôm sau, không biết tin tức do ai xì ra mà báo chí, truyền hình đều đồng lọat loan tin chủ tiệm đồ gỗ Thành Lễ hiện đang là chủ nhân của bức tranh này. Thậm chí có báo còn loan tin giật gân là chính phóng viên ABC gì đó đã được nhìn tận mắt bức tranh và hứa sẽ đăng hình để cống hiến độc giả.

Sau hơn một tháng thương lượng, Bộ Văn Hóa ra một thông báo với nội dung Bà Thành Lễ
chịu bán lại bức tranh cho Viện Bảo Tàng Mỹ Thuật với giá năm trăm ngàn Mỹ Kim, nhưng chỉ lấy một trăm ngàn, phần còn lại coi như cúng vào tài sản quốc gia. Bộ Văn Hóa còn cho biết sau một tuần lễ chuẩn bị, sẽ mở cửa cho công chúng tới thưởng ngọan. Tin này loan đi như một trái bom nổ. Báo chí, truyền thông tha hồ được dịp khai thác. Tiểu sử, hình ảnh của họa sĩ được đăng tùm lum khắp nơi. Thế vẫn chưa đủ, người ta còn tổ chức những buổi phỏng vấn trên đài phát thanh, đài truyền hình cho mời con cháu, bạn bè họa sĩ, các nhà bình luận văn hóa, nghệ thuật lên nói thêm về chi tiết cuộc đời, tính tình, cách ăn ở, về những kỷ niệm với ông, thật có mà phịa thêm ra cũng có. Thậm chí có một bà năm nay đã ngòai sáu mươi, không biết có phải vì muốn “chơi nổi” hay không mà dám đứng ra tự nhận mình là “người tình bé nhỏ” của họa sĩ lúc ông còn sanh tiền và chính “nàng” mới là nguồn cảm hứng để ông sáng tác.

Trong tuần lễ mở cửa cho công chúng thưởng ngọan, người ta ước lượng có cả chục ngàn người kéo tới để ngắm tranh. Sau ngày này người ta cứ tưởng câu chuyện sẽ từ từ lắng dịu. Nhưng không! Vấn đề văn học nghệ thuật một khi nó còn nằm trong vòng thảo luận, đối thọai, bàn cãi giữa mấy ông làm văn nghệ, làm báo thì nó khác. Nhưng khi nó đã lan ra tới quần chúng, tới trà đình tửu quán, nó lan tới tiệc tùng, đám giỗ, đám cưới thì trở nên vô phương kiểm sóat. Ngòai ra, đối với các nước Âu, Mỹ, Nhật Bản người ta làm chủ nhiều bức tranh vô giá, hoặc trị giá cả chục triệu Mỹ-Kim thì chẳng sao cả. Nhưng đối với một nước nhỏ bé như Việt Nam thì nó lại trở thành niềm tự hào, hãnh diện của dân tộc cho nên câu chuyện trở nên thời thượng và người ta bàn luận lan man không biên giới. Rồi không hiểu xuất phát từ đâu nảy ra một luồng ý kiến: Đồng ý bức tranh là báu vật của quốc gia nhưng tên nó là gì? Xe có số, người có tên, truyện ngắn, tiểu thuyết đều có tựa đề chẳng lẽ báu vật của Việt Nam mình không có tên sao? Nếu không tên thì phải đặt tên cho nó chứ. Không tên thì “quê” lắm! Thế là cả nước lại dấy lên một cơn sốt mới, không phải bàn tán về giá trị nghệ thuật của búc tranh mà là tìm cho nó một cái tên. Thôi thì không biết bao nhiêu buổi hội thảo, phỏng vấn, bài viết, gặp gỡ, bút chiến quanh vấn đề cái tên của bức tranh. Thậm chí có nhà bình luận văn học trong lúc quá hăng say đã chụp cho người bạn thân của ông cái mũ “phá họai văn hóa quốc gia” chỉ vì người bạn đề nghị một cái tên khác với cái tên của ông. Cuối cùng thì cả nước chia thành hai khuynh hướng đối nghịch nhau. Một phe do Ông Giám Đốc Viện Bảo Tàng Mỹ Thuật cầm đầu. Một phe do nhà biên khảo kiêm bình luận văn học cầm đầu. Theo Ông Giám Đốc Viện Bảo Tàng Mỹ Thuật thì nếu nhìn bức tranh từ trái sang phải thì mới đầu cụ họa sĩ Lê Thành vẽ một con lăng quăng, cạnh con lăng quăng là con tôm rồi con cá. Cạnh con cá là con trông giống như như con cá thòi lòi khổng lồ với hai cái mang lòi ra như hai cái chân. Kế đó là con cá sấu rồi con khủng long rồi sư tử rồi con vượn, con khỉ dã nhân và cuối cùng kết thúc bằng con người, biểu tượng bằng người đàn ông vạm vỡ tóc dài, râu ria lởm chởm của thời tiền sử. Tất cả những hình thể này được vẽ trong một cái quầng trắng tựa như một đám mây khổng lồ. Dưới đám mây là hằng trăm cánh tay giơ lên với hằng trăm khuôn mặt diễn tả đủ thứ tình cảm phức tạp của con người như: vui, buồn, giận dữ, thống khoái, khổ đau, kinh hoàng, ngạc nhiên, thất vọng, khóc, cười, ca hát, điên lọan, reo vui, la ó, phẫn nộ, chửi rủa v.v…Vậy theo quan điểm của ông, ý nghĩa của bức tranh đã nằm ràng ràng ra đó và cái tên của bức tranh phải là TIẾN HÓA. Còn nhà biên khảo kiêm bình luận văn học lại cho rằng có luật lệ nào buộc người ta phải nhìn từ trái qua phải? Ngòai ra Ông Giám Đốc Viện Bảo Tàng Mỹ Thuật chỉ là dân hành chánh. Nghề của ông là mua bán, quản trị và trưng bày tranh cho dân chúng xem. Còn việc tìm hiểu về triết lý, giá trị nghệ thuật xin để các họa sĩ, các nhà bình luận văn học. Nhờ ông tí! Theo ông, một cách nghiêm túc nhất bức tranh cần phải được nhìn từ phải qua trái. Nếu nhìn theo chiều này thì đây là sự SUY ĐỒI chứ không phải tiến hóa. Ngòai ra ông này còn diễn dịch thêm: Phải chăng những cánh tay chới với giơ lên kia chẳng phải là sự kêu cứu về khuynh hướng mỗi ngày mỗi suy đồi của con người? Cử thử nhìn ra ngòai xã hội mà xem. Con gái mới mười ba, mười bốn tuổi đã mang bầu. Ca sĩ thì tóc dài cửi trần như khỉ dã nhân hát trên sân khấu. Còn lịch dâm ô, ảnh dâm ô, phim dâm ô được chiếu và bày bán khắp nơi. Nếu cái đà này tiếp diễn thì chỉ vài chục năm nữa thôi con người sẽ sống nhầy nhụa như lòai bò sát, lăng quăng. Vậy SUY ĐỒI mới là cái tên đúng đắn nhất dành cho họa phẩm.

Để giải quyết dứt khoát vụ xung đột ý kiến này, Bộ Văn Hóa đã chấp nhận đề nghị cho mở một cuộc họp tay đôi giữa hai phe, với số đại biểu ngang nhau cùng với sự chứng kiến của truyền thông, báo chí. Buổi họp hôm đó diễn ra hết sức căng thẳng. Dù đã cho biểu quyết đến hai lần mà số phiếu vẫn ngang nhau. Vị đại diện Bộ Văn Hóa quá chán nản toan tuyên bố hoãn cuộc họp lại tới một ngày khác thì một lời đề nghị cất lên:

* Thế tại sao không cho rút thăm?

Kể ra đề nghị này cũng có lý lắm. Một vài môn thể thao cũng phải giải quyết thắng bại bằng rút thăm. Vậy việc chọn một cái tên cho một bức tranh sao không thể giải quyết bằng cách rút thăm? Chính vì thế mà sau khi ý kiến này được đưa ra người ta nghe thấy nhiều tiếng xầm xì có vẻ tán đồng. Trong lúc vị chủ tọa toan quyết định cho rút thăm thì từ trong hàng đại biểu một cụ nghiêm trang đứng dậy nói:

* Thưa quý vị, cái gì rút thăm thì được. Còn đây là chuyện văn hóa của nước nhà mà rút thăm thì thế giới nó cười vào mũi cho. Vả lại trong bốn ngàn năm văn hiến có ghi chép chuyện rút thăm bao giờ?

Mặc dù các đại biểu khác cũng nóng lòng muốn giải quyết vụ này cho rồi nhưng ai cũng thấy ý kiến của cụ có phần xác đáng. Nhưng cũng chính vì sự xác đáng này mà hội nghị một lần nữa lại đi vào bế tắc cho nên tất cả đều không nén được tiếng thở dài. Cả hội trường bỗng trở nên im lặng, ngột ngạt. Ngay lúc đó từ ngòai cửa một thanh niên bước vào.

Trong khi chờ đợi nghe anh chàng này nói gì chúng ta thử tìm hiểu xem lý lịch của anh ta như thế nào? Anh ta tên Sinh, năm nay khỏang ba mươi tuổi, có đầu óc phóng khoáng, thông minh, ứng phó lanh lợi, có nhiều tài, có đầu óc khôi hài nhưng chỉ tội thích sống nhàn, làm được bao nhiêu xài bấy nhiêu cho nên tới bây giờ vẫn chỉ là một thứ “nghệ sĩ lang thang”. Chờ đợi ở hành lang từ sáng tới giờ nóng ruột, thấy hội nghị bế tắc cho nên Sinh lên tiếng góp ý chơi. Anh ta lớn tiếng nói:

* Quý vị bàn tán thế này chẳng khác nào mấy ông thầy bói mù sờ voi. Sao không hỏi thẳng tác giả? Tác giả nói tên gì thì bức tranh tên ấy có phải nhanh và gọn không?

Nghe một thằng cha căng chú kiết nào đó lớn lối giữa hội nghị như vậy một số đại biểu lộ vẻ bất bình toan đuổi ra ngòai nhưng một số thấy tuy có vẻ điên khùng nhưng không phải không có lý cho nên cố kiên nhẫn hỏi:

* Đồng ý là như vậy nhưng cụ Lê Thành chết cách đây hai mươi năm rồi. Làm cách nào để nói chuyện với người chết?

Sinh cười lớn đáp:

* Trời đất! Dân tộc chúng ta có nghệ thuật đánh đồng thiếp. Bao nhiêu chuyện oan khiên, bao bí mật của người chết đem đi còn hỏi được huống hồ tên của một bức tranh. Nếu qúy vị đồng ý, tôi sẵn sàng chịu ngồi đồng xuống hỏi cụ Lê Thành. Tôi chẳng thuộc phe phái nào cả. Chỉ vì danh dự của cả nước mà hy sinh chịu làm việc nguy hiểm này thôi.

Sinh vừa nói dứt lời thì cả hội trường cùng ồ lên một tiếng, nhưng không phải để phản đối mà là tán thưởng. Thế là cuộc họp đang từ xung đột ý kiến bỗng chuyển sang làm thế nào tổ chức một buổi đánh đồng thiếp để giải quyết vụ này cho rồi. Bởi vì bây giờ sự cuồng nộ của dân chúng đã lên cao. Giả sử phiên họp này chẳng đi đến kết quả gì cả, dân chúng sẽ nói cái ông Bộ Trưởng Bộ Văn Hóa chỉ là thứ ăn hại đái nát, còn đám bình luận văn học chỉ là quân phá thối thì hậu quả tai hại không biết là dường nào. Thà có giải pháp còn hơn không có giải pháp. Không có giải pháp là đồng hóa với hỗn lọan.

♦ ♦ ♦

Theo lời đề nghị của mấy cụ cao niên trong phiên họp nói trên, cùng sự góp ý của mấy chuyên viên Bộ Văn Hóa, khỏang hai tuần lễ sau buổi đánh đồng thiếp được tổ chức tại một ngôi đình cổ kính, trang nghiêm. Chính giữa sân đình trải một chiếc chiếu hoa thật rộng. Bốn góc chiếu là bốn chiếc cọc trên có cắm bốn cành phan tượng trưng bốn hướng Đông, Tây, Nam, Bắc treo đầy những bùa chú. Theo lời truyền tụng thì khi pháp sư bắt đầu ra tay thì gió sẽ thổi lồng lộng. Cành phan bay theo chiều nào thì hồn xuất về ngả đó. Khi hồn quay về để nhập lại xác phàm thì gió sẽ đổi chiều. Vậy người ta cứ nhìn vào cành phan là biết diễn biến của buổi đánh đồng thiếp. Quan khách được ngồi theo hình chữ U của ba mép chiếu bao gồm đại biểu của hai phe có ý kiến trái ngược nhau về tên của bức tranh và một đạo quân đông đảo báo chí, truyền hình và một vài hãng thông tấn ngọai quốc hiếu kỳ. Mép chiếu thứ tư hướng về sân đình chỉ kê hai chiếc ghế đẩu dành cho pháp sự và bà cốt. Bên cạnh đó là chiếc bàn nhỏ dành cho thừa phát lại trên có đặt tờ giấy cam kết của Sinh, cam đoan không kiện cáo hay làm khó dễ Bộ Văn Hóa nếu có chuyện không may xảy ra. Sự hiện diện của thừa phát lại còn cho thấy cuộc đánh đồng thiếp là hợp pháp và nếu Sinh có mệnh hệ nào thì đó không phải là một âm mưu khuất lấp. Khi tiếng trống thùng thùng vang lên thì ông đồng, bà cốt và Sinh từ mé hậu liêu bước ra. Cả ba thắp nhang lạy tạ Thành Hòang làng trước sân đình rồi Sinh bước tới ngồi xếp bằng tròn trên chiếc chiếu. Pháp sư lấy từ trong chiếc tráp ra ba lá bùa rồi căn dặn Sinh:

* Lá bùa thứ nhất dùng để mở cửa Địa Phủ. Khi tới bức thành cao ngất cứ dán lá bùa này vào thì cửa tự nhiên mở ra cho nhà ngươi. Lá bùa thứ hai để mở cửa Địa Phủ ra về. Nếu làm mất đạo bùa này thì nhà ngươi vĩnh viễn làm con dân của Địa Phủ. Lá bùa thứ ba để soi đường, dẫn lối cho hồn ngươi nhập vào xác phàm. Cứ giơ đạo bùa này ra phía trước thì sẽ thấy một đốm sáng nhỏ như con đom đóm soi đường. Nếu mất đạo bùa này thì nhà ngươi như đi trong sương mù, không tìm thấy đường về và vĩnh viễn trở thành hồn ma không nơi nương tựa. Sau chót, điều này phải nhớ kỹ. Đạo bùa của ta chỉ linh nghiệm trong ba tiếng đồng hồ. Nếu xuống đó nhà ngươi ham vui, thơ thẩn không về, khi bùa ta hết linh, hồn ngươi không nhập được với xác, đó không phải lỗi của ta hay của bà cốt.

Nghe pháp sư dặn thế thì tất cả đều kinh hãi, còn Sinh thì ôm chặt ba đạo bùa vào lòng. Còn pháp sư thì lấy mấy ngón tay bấm bấm như thể xem giờ rồi đưa mắt ra hiệu cho bà cốt. Bà cốt lanh lẹ lấy một vuông nhiều điều trùm lên đầu Sinh và cuộc đánh đồng thiếp bắt đầu.

Bằng tiếng thét làm mọi người giật bắn mình, pháp sư một tay bắt ấn, một tay lúc chỉ lên trời, lúc chỉ vào người Sinh. Còn bà cốt thì chạy quanh chiếc chiếu như chiếc đèn cù, miệng lẩm nhẩm đọc những câu thần chú. Rồi từ từ pháp sư bước chân theo phương vị bát quái, tay cầm bó nhang khoa lên đầu Sinh lúc này đã phủ kín bằng vuông nhiễu đỏ. Đây là giai đọan quan trọng vì pháp sư đang trổ hết thần lực để xin Địa Phủ cử sứ giả về rước hồn người đang ngồi đồng.

Còn về phần Sinh, sau tiếng thét của pháp sư, chàng thấy người mình nhẹ hẳn đi rồi tòan thân đang ở tư thế ngồi xếp bằng, từ từ cất lên cao. Chàng thấy sương mù và khói trắng ở đâu ùn ùn kéo tới cho nên cảnh vật chung quanh mờ dân, mờ dần. Khi thân hình đã nhấc lên khá cao thì chàng chuyển sang thế đứng, chưa biết làm gì thì nghe một tiếng quát lớn bên tai “ Chạy về hướng Tây!” Thế là chàng ù té chạy. Chạy được một đỗi chàng thấy đầu óc bắt đầu tỉnh táo. Nhìn hai bên là cả một vùng đồi núi chập chùng ẩn hiện trong làn sương trắng. Và chàng cứ tiếp tục cắm đầu cắm cổ chạy như thế có lẽ cũng gần một tiếng đồng hồ thì tới một bức thành cao ngút trời. Vì thành xây bằng đá hoa cương cho nên nó hòa lẫn vào mây cho nên ở xa không sao nhìn thấy. Nhớ lời dặn, chàng lấy đạo bùa dán lên mặt đá. Vùa dán xong một cái thì bức tường từ từ chuyển động và tách ra thành một lối đi và chàng lách mình vào.

Kể từ đây, vì là ranh giới của Địa Phủ cho nên phong cảnh hoàn toàn đổi khác. Nhà cửa mọc sát như những đô thị Thời Trung Cổ. Đường đi rất hẹp chỉ đủ để hai người tránh nhau. Ánh sáng mờ mờ nhưng không tối lắm và tuyệt nhiên không thấy bóng người qua lại. Chàng cứ đi theo con đường nhỏ ngoằn ngòeo. Đi một đỗi chàng thấy phía trước là một cụ mặc áo the đen, đầu đội khăn xếp, thắt lưng nhiễu đỏ ngồi trước một chiếc án thư, nét mặt rất trang nghiêm. Khi thấy chàng đến gần, cụ già lên tiếng hỏi:

* Nhà ngươi tên gì và muốn gặp ai?

Chàng mau mắn đáp:

* Thưa cụ, con tên Sinh và muốn gặp cụ họa sĩ Lê Thành.

Nghe nói vậy, cụ già chỉ vào cái phòng nhỏ bên cạnh, nói:

* Ngươi ngồi đó chờ ít phút, quan lớn sẽ ra ngay.

Tuân theo lời chỉ dẫn chàng bước vào. Trong phòng khách vỏn vẹn chỉ có hai chiếc đôn và một án thư trên đó có hai ngọn bạch lạp. Chàng lựa một cái đôn ngồi xuống chờ. Chỉ ít phút sau chàng nghe thấy tiếng chân người và từ trong bước ra một cụ già ăn mặc giống hệt cụ già ngồi trước cửa, có khác hơn là cụ già này mặt mũi hiền từ hơn, tay phe phẩy chiếc quạt lông và ngực có đeo một tấm thẻ ngà chứng tỏ cụ là một quan chức dưới Địa Phủ. Khi cụ già đã đến gần, Sinh đứng dậy lễ phép thưa:

* Thưa cụ con tên Sinh, hân hạnh được gặp cụ.

Cụ già niềm nở chìa tay ra nói:

* Ta là Lê Thành, ngồi…ngồi xuống. Đừng khách sáo.

Đợi cụ Lê Thành an vị đâu đó Sinh lên tiếng:

* Con có câu truyện quan trọng muốn thưa với cụ…

Sinh chưa nói hết câu thì cụ già đã cắt ngang:

* Lúc nào trên trần gian mà chẳng có chuyện quan trọng. Chuyện quan trọng trên đó giống như chuyện con nít đái dầm, trẻ em vòi quà.

Không dám có ý kiến chi với nhận xét của cụ, Sinh lễ phép thưa tiếp:

* Thưa cụ, trên đó bây giờ họ đang cãi nhau lọan xà ngầu về cái tên của bức tranh cuối cùng cụ để lại !

Nghe Sinh nói vậy, cụ Lê Thành vuốt râu cười khà khà rồi thân mật vỗ vai Sinh, nói:

* Chú mày chưa được người ta ái mộ, chưa được nổi tiếng nên chưa biết đấy thôi. Chứ nổi tiếng rồi dù có vẽ bậy ra đó người ta vẫn cứ khen nức nở như thường. Ta thực sự chẳng có chủ đích gì khi vẽ bức tranh đó cả. Ngươi về nói với trên đó…bức tranh đó ta vẽ đại ra. Tên nó là Họa Phẩm Vẽ Đại…ta không nói dối đâu.

Nghe cụ Lê Thành nói vậy Sinh muốn bật ngửa người ra đằng sau. Tuy nhiên sợ cụ họa sĩ có tính đùa giai cho nên chàng vớt vát:

* Chắc cụ thương con mà nói đùa vậy thôi. Tác phẩm của cụ đang là báu vật của đất nước, tài của cụ ai dám phủ nhận.

Nghe nói vậy cụ Lê Thành lại vuốt râu cười khà khà, nói:

* Trần gian chỉ thích lời nói dối mà không tin lời nói thật. Ngươi cứ tưởng hễ là thiên tài rồi thì không bí đề tài à? Hôm đó quả thật ta bí rị đề tài. Ta có thói quen đem theo một cái túi trong đó đựng cả trăm thứ hình mẫu từ cây cỏ, hoa lá đến rắn rết, ba ba, thuồng luồng, chim chóc, cá tôm, đàn ông, đàn bà, thiếu nữ v.v…Khi nào bí đề tài ta cứ thò tay vào túi, bốc ra cái nào thì ta vẽ cái đó. Ngươi không tin ta sao?

Với cuộc sống buông thả của típ “nghệ sĩ lang thang” quả thật Sinh rất thích tính tình phóng khoáng của cụ Lê Thành. Nhưng trót mang trên người một sứ mạng cho nên chàng vẫn cứ cho rằng ngòai biệt tài hội họa, cụ Lê Thành còn có đầu óc khôi hài cho nên chàng cố năn nỉ:

* Xin cụ cho con một cái tên gì cũng được.

Nghe nói vậy cụ Lê Thành đứng dây, phất chiếc quạt lông, nói:

* Họa Phẩm Vẽ Đại! Tên nó là như thế. Ta đã nói rồi. Ngươi không chịu tin sao? Nhà ngươi đứng lên, về ngay đi. Nếu chậm trễ bùa hết linh thì nhà ngươi vĩnh viễn làm con dân của Địa Phủ này. Đi nhanh lên!

Nghe nói thế Sinh thất kinh hồn vía, không dám lằng nhằng nữa. Chàng lễ phép vái chào cụ rồi quay lui. Tới bức thành chàng mau lẹ dán lên đó đạo bùa thứ hai. Khi cánh cửa nứt ra, chàng lách mình ra ngòai. Ra tới ngòai, mặc dù còn bán tín bán nghi về những gì cụ Lê Thành nói nhưng dù muốn dù không đây cũng chính là lời từ miệng cụ nói ra. Lát nữa đây khi trở về dương thế, chàng chỉ cần thành thực trình bày hết thì chắc mọi người phải tin …và sau đó ung dung lãnh thưởng và từ rày về sau sẽ không bao giờ chơi cái trò dại dột này nữa. Nghĩ tới đây Sinh cảm thấy vô cùng phấn khởi và co giò phóng đi. Chàng cẩn thận giơ đạo bùa thứ ba ra như lời căn dặn của pháp sư. Một đốm sáng lập lòe phía trước như soi đường dẫn lối. Nhưng mới chạy được vài chục bước, mồ hôi trong người Sinh tháo ra. Chàng dừng lại, ngồi xuống một tảng đá bên đường, ôm đầu kêu than:

* Không được! Không được! Hiện giờ dân chúng đang coi bức tranh của cụ là báu vật của đất nước. Nếu bây giờ ta nói đó chỉ là họa phẩm vẽ đại thì họ sẽ điên lên! Chà! Chà! Hơn thế nữa hai nhóm người kia nghe ta nói vậy khác nào ta bảo họ là lũ điên khùng, làm chuyện ruồi bu. Họ sẽ xúm lại đổ lỗi cho ta nói láo. Họ sẽ chụp cho ta cái mũ “phá họai văn hóa quốc gia” lúc đó ta ăn nói làm sao? Ai làm chứng cho ta? Chà! Chà! Ta là sứ giả được gửi đi. Cụ là thần linh. Nay thần linh nói ngược với ý muốn của quần chúng. Để bảo vệ giá trị của bức tranh, để bạo vệ cụ, người ta sẽ chém đầu sứ giả để cho thấy thần linh bao giờ cũng đúng, cũng vĩ đại. Còn ngược lại, nếu họ tin ta, tức là họ sẽ đạp đổ thần linh. Chà! Chà! Khó quá! Thần linh muốn tồn tại cũng phải nói theo khát vọng của quần chúng chứ?

Bằng lời than như thế Sinh muốn trách khéo cụ sao không uyển chuyển một chút, có mất mát gì đâu? Nhưng rồi giữa giây phút bế tắc tột cùng đó, Sinh đột nhiên ngửng đầu dậy, bật cười, vỗ đùi đến đét một cái rồi nói:

* Sinh ôi! Mi cứ tưởng mi thông minh nhưng thật ra rất chậm hiểu! Này nhé, có gì đâu? Bây giờ ta quên béng lời nói của cụ đi. Bởi ta có nói thật cũng chẳng ai tin. Khi đó ta sẽ bịa ra lời nói khác. Khi về dưới dương thế chỉ có mình ta. Ta muốn nói gì thì nói. Bố ai biết được? Lúc đó ta chính là cụ. Ta chính là thần linh.

Thống khóai với ý nghĩ mình là thần linh, Sinh bật cười khúc khích rồi lẩm bẩm nói tiếp:

* Ta đã là thần linh rồi thì ta có quyền ban phúc, giáng họa. Ta muốn cho nhóm nào đúng là nhóm ấy đúng. Phải rồi! Nhưng nói theo nhóm người mạnh chắc ăn hơn bởi nhóm yếu chống ta cũng chẳng được. Nhưng nhóm nào mạnh nhỉ? Đúng rồi! Nhóm của lão Giám Đốc Viện Bảo Tàng Mỹ Thuật của Bộ Văn Hóa là nhóm của chính quyền. Chính quyền thì phải mạnh rồi. Ta phán cho nhóm này thì chắc ăn như bắp!

Tóm được ý nghĩ này Sinh như người mở cờ trong bụng, bật cười khóai trá, đứng dậy co giò phóng đi như bay. Nhưng cũng giống như lần trước, mới chạy được khỏang vài chục bước thì mồ hôi trong người lại rịn ra. Sinh dừng lại, ngồi phệt xuống ven đường, ôm đầu kêu lên:

* Không được! Không được! Mới đầu ta cứ tưởng nhóm của lão giám đốc mạnh, nhưng nhóm của thằng cha biên khảo kiêm bình luận văn học là nhóm quen thân với truyền thông, tức là nhóm báo chí. Nếu hắn bị thua thì báo chí sẽ bênh hắn. Truyền thông đấu với chính quyền chưa biết mèo nào cắn mỉu nào. Có khi truyền thông ăn đứt chính quyền ấy chứ? Trường hợp truyền thông Mỹ vật ngã Tổng Thống Nixon, Tổng Thống Bush còn sờ sờ ra đó. Chà chà! Khó thật!

Với ý nghĩ chua chát đó, Sinh ôm đầu rên như người lên cơn sốt. Nhưng rồi với bản chất lanh lợi thóat hiểm trong đường tơ, kẽ tóc, cũng giống như lần trước, Sinh đột nhiên ngửng đầu dậy, vỗ đùi đến đét một cái rồi nói:

* Đồ ngu! Có thế mà không nghĩ ra! Này nhé, nếu hai bên sức mạnh tương đương thì thần linh dại gì mà theo bên nào? Thần linh phải đứng cửa giữa chứ. Ta sẽ nói sao để phe nào cũng thấy đúng, cũng thấy cần ta. Hì! Hì! Như thế tên của bức tranh sẽ là…Phải! Tên của bức tranh sẽ là…Hì! Hì!

Với ý nghĩ này Sinh phá lên cười như nắc nẻ, vươn vai đứng dậy rồi cứ theo đốm sáng phía trước chạy như giông như gió. Chạy được một đỗi chàng nghe thấy tiếng lốc cốc, leng keng, tiếng la, tiếng thét bèn dừng lại. Ngay dưới sân đình chiếc xác phàm của Sinh đang ngồi đó, trên đầu phủ mạnh nhiễu điều. Biết mình đã về tới nơi, chàng nhào tới ôm đại làm chiếc xác phàm té bổ ngửa về phía sau.

♦ ♦ ♦

Trên sân đình, kể từ lúc chàng Sinh xuất hồn đi thì mấy cành phan lất phất bay về phía Tây. Khoảng tiếng đồng hồ sau thì gió đổi chiều và ai cũng hiểu rằng hồn của Sinh đang từ Địa Phủ trở về dương thế. Nhưng không hiểu sao gió đang thổi đều đều như thế, cành phan đang bay lất phất thì bỗng rủ xuống, im bặt. Bộ mặt của pháp sư đang đỏ gay bỗng xạm hẳn xuống. Mồ hôi trong người ông tháo ra và tất cả mọi người chung quanh đều hiểu rằng đây là giây phút tử sinh kề cận. Nếu vì một lý do gì mà bùa hết linh, tính mạng của Sinh đi đứt là chuyện đương nhiên, mà thầy pháp cũng có khi té hộc máu vì “phù thủy lụy âm binh” cũng là chuyện thường. Đây chính là lúc Sinh ngồi phệt xuống ven đường trong phần mô tả ở trên, không chịu chạy làm cho cành phan xìu hẳn xuống. Trước tình thế nguy cấp đó, pháp sư miệng la hét, tay bắt quyết, chân đạp xuống đất như giận dữ ra lệnh cho bà cốt đốt đạo bùa thứ tư - đạo bùa trấn sơn của ông. Rất may mà Sinh tìm ra lời giải đáp rồi co giò phóng chạy như bay cho nên cành phan trên này bắt đầu bay lất phất làm cho cả trăm con người cùng ồ lên một tiếng vì vui mừng mà cũng vì thán phục pháp sư. Khi thấy Sinh đang ngồi bất động trên ghế mà té bổ ngửa ra đằng sau thì mọi người biết rằng hồn đã về với xác. Bà cốt mau mắn đỡ Sinh dậy, lấy chiếc khăn lau mặt cho Sinh rồi hỏi như dỗ dành:

* Hồn đã đi đến nơi, về đến chốn đó à?

Sinh khẽ gật đầu. Vì đây là giây phút quan trọng nhất của buổi đánh đồng thiếp cho nên người ta cùng đổ xô tới. Máy quay phim chạy rè rè, máy thu băng được bật lên, các ký giả thì chuẩn bị ghi chép. Còn bà cốt thì nhẹ nhàng hỏi tiếp:

* Hồn xuống dưới đó gặp những ai?

Từ nơi miệng Sinh thốt ra câu trả lời:

* Hồn gặp cụ họa sĩ Lê Thành.
* Thế cụ Lê Thành nói gì?

Sau câu hỏi này thì mọi người nín thở để chờ đợi câu trả lời. Từ nơi miệng của Sinh thốt lên giọng nói nhai nhái giống giọng cụ Lê Thành:

* Này ta bảo cho các người biết. Bức tranh đó ta đã để hết tâm trí để vẽ trong ba tháng trời. Nó là họa phẩm đắc ý nhất của ta. Tên nó là…là…TIẾN HÓA SUY ĐỒI. Nhớ không? Tên nó là TIẾN HÓA SUY ĐỒI!

Chiếc sân đình đang nghẹt thở, im lặng bỗng cùng rộ lên một tiếng. Người ta khoa chân múa tay, người ta nhảy nhót, người ta reo hò mừng rỡ. Trong mớ hỗn độn đó Ông Giám Đốc Viện Bảo Tàng Mỹ Thuật chạy tới ôm chầm lấy nhà biên khảo kiêm bình luận văn học rồi xúc động nói:

* Bác ôi! Bọn mình có mắt cũng như mù. Bọn mình chỉ nhìn thấy phân nửa ý nghĩa của cụ Lê Thành thôi! Đúng vậy! Đúng vậy! Tên bức tranh phải là TIẾN HÓA SUY ĐỒI !!! Nhìn từ trái qua phải cũng được. Nhìn từ phải qua trái cũng được. Cụ Lê Thành thánh thật bác ạ!!!

Đào Văn Bình
(trích trong tuyển tập Hương Xót Xa xb năm 1998)