Tự thuật của David Ngô
Đã từ lâu tôi vẫn muốn viết một cái gì đó về chuyện tôi “làm” thuế vụ, nhưng cứ mãi kẹt cái đầu đề. Bảo là “làm nghề thuế vụ” thì không đúng, vì có thể bị hiểu lầm là làm “tax agent” hay “accountant” khai thuế cho bà con lấy tiền. Vả lại thuế vụ không phải là một cái nghề, như nghề bác sĩ, nghề thợ máy v.v... Bảo là “làm cho Sở Thuế” thì đúng hơn, nhưng nó có vẻ lấn cấn làm sao ấy, vì làm cho Sở Thuế, cho Centrelink, cho Sở Di Trú vân vân và vân vân, thì cũng chỉ là công việc làm nghề cạo giấy (nay thì không cạo giấy nhiều như trước nữa mà trở thành nghề sờ “mouse” - xin phát âm cho đúng chữ “mouse”). Cạo giấy ở Việt Nam hay sờ “mouse” ở đây thì cũng chỉ là một nghề công chức quèn, ở Việt Nam thì có quyền, có khi còn có bổng lộc hậu hỉ, còn ở đây quyền thì có nhưng muốn tiền thì cũng phải chờ mỗi hai tuần nửa tháng nhận “payslip” mới có tiền như ai. Đỡ một cái là nay có tiến bộ hơn thời trước khi làm công chức ở Việt Nam chút xíu: không còn phải cảnh “sáng xách ô đi tối xách về” mà là “sáng lái xe đi tối lái về” (ở đây chỉ khi nào trời mưa thiên hạ mới xài ô xài dù - hồi mới qua Úc bọn tui đi dạo buổi trưa trời nắng chang chang, bà xã tôi căng dù ra che, bị thằng nhỏ chỏ mũi lỏ hỏi bộ trời đang mưa sao? Ngu chi là ngu! Đó là nói thằng nhỏ nó ngu, không phải nói vợ tôi đâu nhé!). Cũng như thời ở Việt Nam trước đây quý vị quốc gia hành chánh chúng ta cũng vẫn “làm công chức” đấy. Nhưng bảo mình làm công chức thì e có người lại cho là tự phụ, dù rằng “làm công chức” ở cái xứ nầy cũng chẳng khá hơn những ngành nghề khác là bao.
Vậy thì thôi, cứ để tôi “làm” thuế vụ cho nó gọn.
Gia đình tôi qua Úc năm 1989. Bọn tôi chậm chân, hay xui xẻo đi đứng không được trôi chảy trót lọt nên qua đây trể nãi hơn nhiều bà con khác. Mới qua thấy cái gì cũng thiên đàng cả. Từ ngôi nhà nhỏ đàng sau đang ngụ tạm, đến thửa vườn, vỉa hè, thậm chí đến mùi bơ thơm phức ở phố Auburn (mùi bơ từ các lò bánh mì Việt Nam bay ra đường thơm lừng, nhưng đố quý vị nào đã ở Úc lâu năm đi qua đó còn ngửi ra được mùi bơ, vì khứu giác nay đã quen với các mùi vị bên nầy rồi, may ra chỉ còn chút hương bơ phảng phất). Rồi thì đi học thêm tiếng Anh, giờ ra chơi trời lạnh buốt (lúc đó đang là mùa đông) vào căntin của trường mua một ly cà phê instant rẻ tiền nóng hổi vừa thổi vừa run, và điều đặc biệt hơn nữa là cứ tuần tuần lại đi “cướp nhà băng” (đó là nói đi ra chỗ máy rút tiền của ngân hàng lấy tiền đô xài). Ôi đời đẹp làm sao!
Lúc mới qua nghe anh em nói ở đây kiếm công ăn việc làm khó khăn lắm, phải mất thời gian và phải kiên nhẫn lắm mới được. Thế mà chỉ trong mấy tuần lễ đầu tôi cũng đã thử qua ba jobs. Job thứ nhất mới làm được một ngày, công việc nặng quá chịu không nổi xin nghỉ, chủ nó nói mầy mới vào làm không được việc gì, mầy làm không nổi thì về đi, tao không trả lương đâu (dù là cả ngày đó tôi đã ráp được mấy bộ phận cho hơn chục cái máy nổ nặng trịch, còn chuyển hàng, đổ rác vân vân cho nó, may cho nó là lúc đó tôi ngu, chứ gặp như bây giờ thì bỏ bu nó rồi, tôi kiện cho mà tới bến!). Job thứ hai làm được hơn một tuần, đòi supervisor chuyển qua ca đêm để được đi học ban ngày, bị nó ghét nó đì, tức quá bỏ việc. Job thứ ba làm lâu hơn, khoảng chừng nửa năm, nhưng mệt quá. Ban đầu đứng trông nom một máy xếp chai coca, bữa nọ có người nghỉ bệnh không có ai thay thế, nó bảo “thôi mầy coi giùm máy kia luôn”, coi thét rồi sau đó nó cắt bỏ bớt một người, phải đứng hai máy luôn từ đó. Có công đoàn thì là công đoàn nịnh chủ, có supervisor người mình thì ỷ quyền ỷ thế chà đạp lẫn nhau. Tôi đụng nó một lần khi nó nói hỗn với tôi trước mặt mọi người, nó tưởng tôi không nói được tiếng Anh. Tôi tức quá xổ nguyên tràng chửi nó, làm nó câm the luôn. Mấy bà Úc bảo lần đầu tiên tụi tao thấy một người Á Châu nổi giận dám chửi supervisor (!), còn anh em người mình làm chung thì hả dạ quá sức, sau đó họ gặp tôi họ cám ơn, nói là phải cho nó một bài học để nó chừa, họ kể có một anh thầy giáo vào làm trước đó bị nó làm nhục đến khóc, phải nghỉ hãng luôn. Vậy mà nó cũng chỉ khoảng đâu mới ngoài hai mươi. Vào hãng hồi còn nhỏ xíu làm “factory hand”, nhờ nịnh bợ lâu năm được xếp nâng lên làm supervisor, chẳng đáng tuổi con mình, mà cũng chẳng đáng làm học trò mình. Đó bà con thấy người mình với nhau mà vậy. Nghe mấy người bạn còn làm nơi đó nói sau đó nó ra làm business may, làm ăn khấm khá, sinh ra cờ bạc, hãng dẹp mà nhà cũng bán luôn đi ở nhà thuê. Đáng đời, chỉ tội nghiệp cho vợ con nó. Nhưng job nầy nặng quá, gặp đứng mấy cái máy thổi chai plastic nóng phừng phực, nhất là mùa hè, mùa đông còn đỡ bớt, làm bảy ngày roster, những tuần làm ca đêm về ban ngày không ngủ được, người sút thấy rõ. Bà xã nói kiểu nầy chắc anh không sống lâu nổi với tui. Anh em bạn trong hãng đi vào làm ca tối gặp nhau câu đầu tiên không hỏi mạnh khoẻ không, ăn cơm chưa, mà hỏi có ngủ được không? (ngủ ngày như mấy con cú con dơi, đêm đêm ra kiếm ăn!) Rõ ràng là đối với hoàn cảnh công việc tại hãng xưởng đó thì ngủ là trên hết, cái khoái thứ hai trong tứ khoái được nâng bậc lên thành cái khoái thứ nhất. Nhưng ngủ ngày thì khó quá. Bữa nào làm ca ngày hay ca chiều về thì mặc sức ngủ đêm thả giàn.
Những ngày rảnh không vào ca mới lân la ở chỗ xin việc (lúc đó còn là cơ quan của chính phủ, gọi là CES) đọc mấy cái quảng cáo tìm việc làm. Mới thấy họ cho đăng tuyển thi vào job công chức chính phủ. Hỏi người bạn thì anh ta bảo khó lắm, khó lắm, tui ở Úc cả chục năm rồi, thi mấy bận trượt mấy bận, anh muốn thì thử xem cho biết, nhưng đừng hy vọng gì nhiều. Ờ thì bạn bảo vậy thì hay vậy, nhưng thử thì cứ thử, chứ có mất gì đâu, thi không tốn tiền, cả tiền xe đi thi họ cũng trả cho mình, tội gì không thử cho biết!
Mới bôn ba đi xe lửa lên ga Redfern (thật ra thì xe train ở đây toàn chạy bằng điện không có chút lửa khói gì cả, trừ xe xuyên tiểu bang mới chạy bằng máy dầu phun khói tùm lum). Từ ga Redfern lội bộ mười lăm phút đến Sydney University. Lần đầu tiên đi vào một trường đại học Úc, thấy to lớn quá, to hơn Học Viện Quốc Gia Hành Chánh của mình nhiều, to hơn bất cứ trường đại học Việt Nam nào trước đây ta đã mài đũng quần ê a mấy bài học từ chương. Mấy cô mấy cậu sinh viên ngồi nằm la liệt ngoài sân cỏ phơi nắng, thấy vui mắt lạ. Phòng thi là giảng đường rộng thênh thang, tới đó đã thấy ngồi chật ních những người là người. Có cả hơn ngàn chứ chẳng chơi. Kiểu nầy chắc một chọi mười chọi trăm, coi bộ khó ăn đa. Đề thi dầy cộm, giám thị đi đi lại lại dòm dòm ngó ngó. Mỗi đoạn của bài thi không được làm quá giờ ấn định, mười lăm phút là mười lăm phút, ai nấy phải bỏ bút xuống, lỡ còn cầm cây bút trên tay là giám thị chạy ngay lại ghi số cảnh cáo ngay, ba lần là đuổi ra khỏi phòng thi. Căng như vậy đừng nói chi là lén lật tự điển hay hỏi người chung quanh. Thôi thì hồn ai nấy lo.
May mắn thay, nhờ ơn trời Phật kỳ thi đó lại trót lọt, chắc cũng nhờ người mình có khiếu giỏi tính toán, mấy cái bài tính cộng trừ nhân chia phải làm như máy, với lại mấy cái hình vuông hình tam giác so tới so lui làm sao cho chính xác và nhanh mới kịp giờ. Còn tiếng Anh tiếng U thì kể như nửa phần ăn chắc, còn nửa phần lại thì đoán mò. Nhưng dù sao thì cũng qua, kể như đậu hú hoạ đi!
Lúc vào phỏng vấn chúng hỏi muốn đi làm đâu. Thì mình xuất thân từ công chức, dĩ nhiên muốn trở lại làm công chức. Và vì vốn có chút gốc gác kế toán nên xin vào Taxation. Thế là tôi được vào “làm” thuế vụ.
Mấy ngày đầu mới vào làm cứ như mán về thành. Thấy cái gì cũng hay, cái gì cũng ngon lành. Nhảy ngay vào chỗ Centrepoint ngồi (quý vị biết Centrepoint là tòa nhà lầu bên dưới Sydney Tower ở trung tâm Sydney). Cứ tưởng mình là trung tâm thứ thiệt. Ngồi làm việc ngó xuống đường xe cộ người đi qua lại râm ran, càng thấy đời đẹp làm sao. Mua mấy cái postal cards hình Sydney Tower, hình nhà con sò, hình Sydney Harbour Bridge gởi về bà con bạn bè còn ở Việt Nam, nói là tui làm chỗ đó đó, làm ai nấy cứ tưởng bở cho là oai lắm!
Hồi đó (1990) chưa có máy computer cá nhân đầy dẫy như bây giờ. Đại đa số công việc còn bằng giấy bút. Hai ba năm sau mới dần dần có computer, đến nay thì quý vị cũng biết đấy, già trẻ lớn bé đều có máy riêng, xài thả giàn, đến nỗi mỏi cả cổ rêm cả lưng. Không tin vị nào ngồi trước bàn gõ computer chừng vài tiếng sẽ biết mùi ngay!
Thật ra thì “làm” thuế vụ ở đây khác xa ở Việt Nam rất nhiều, Việt Nam thời xưa cũng vậy, mà nhất là thời nay. Ở Việt Nam ta, mấy người làm ăn mà nghe nói đến “thuế vụ” là kể như hết ăn hết ngủ. Còn ở đây thì bù trất. Hồi trước 75, ta thường nói “công chức là công bộc của dân”. Không biết thời đó ý nghĩa mấy chữ “công bộc của dân” là như thế nào, chứ nếu đem ra áp dụng cho xứ Down Under nầy thì đúng ngay chóc! Mà công chức ở đây đúng là làm tôi tớ cho dân thật. Ở đây danh từ chính thức chỉ người công chức là “public servant” - đầy tớ công cộng - cứ nghe như “đường lộ công cộng”, “nhà bếp công cộng”, “nhà gì đó . . công cộng”! Và dù anh làm cho bộ sở nào, dù anh có là viên chức cao cấp cách mấy đi nữa, thì anh cũng chỉ là một “employee” làm việc ăn lương, cũng như mọi công nhân hay viên chức các sở hãng tư. Anh mà lơ tơ mơ ra đường lái xe quên gài “seat belt” thì dù anh có là ông Thủ Tướng đi nữa cũng vẫn bị biên phạt như thường, còn bị đem ra bêu riếu cho bàng dân thiên hạ chê cười. Không như mấy ông công chức ở các xứ khác thét ra lửa, ở đây anh công chức nào mà lôi thôi hống hách hay lạm quyền thì coi chừng!
Ngày đầu tiên lấy xe chính phủ đi kiểm tra thuế (hồi đó còn xe bảng số đỏ để cho mọi người biết là xe chính phủ, sau đó sợ nhân viên ra đường bị chúng “oánh”, và cũng bị mấy vị phú lít bạn dân chiếu cố kỹ quá, chắc là mấy trự đó có bị thuế kiểm tra hay sao – nên nhớ là dù cho có đi làm việc lái xe chính phủ đi nữa mà đậu lang bang hay chạy trái luật là “a lê hấp”, lãnh giấy phạt ngay - nên sau đó họ bỏ chế độ bảng số đỏ luôn, nghe nói trước kia còn có đồng phục nữa, nhưng quý vị “đầy tớ dân” mặc ra đường run quá nên cũng dẹp hết).
Nội cái chuyện được lái công xa đi kiểm tra các business cũng đã thấy oai ra phết. Nhưng cái gì cũng có bề mặt bề trái của nó. Cơ sở nào lôi thôi thì họ cũng sợ mình thật, nhưng có mấy thằng cứng, nó nói: “I have nothing to hide” – tao chẳng có gì để dấu giếm cả - thì hãy coi chừng. Làm việc phải ra làm việc, luật lệ đâu ra đó, đến chỗ cơ sở có khát nước đến miếng nước lạnh cũng chẳng dám xin uống, đừng nói chi chuyện cà phê cà pháo, lôi thôi nó làm đơn kiện mình là sách nhiễu nầy nọ thì phải về thanh minh thanh nga với cơ quan gọi là mệt nghỉ. Ở đây quyền dân là trọng, làm việc phải theo luật, còn phải ăn mặc chỉnh tề, thái độ nói năng lễ phép nữa chứ!
Làm công chức ở đây cũng chẳng khác chi các nghề khác, có vui mà có buồn. Và cũng may là vui nhiều buồn ít, chứ không thôi thì là “bad luck!”. Mỗi ngày làm xong công việc đâu vào đó, đi về thấy tinh thần vui vẻ sảng khoái, kể như là mình đã xong bổn phận đóng góp một phần cho quốc gia trong ngày đó. Nhưng cũng có nhiều khi bực gần chết. Ai đời tảng sáng vào sở, mới nối điện thoại vào đường dây Helpline (có mấy năm mình làm cho đường điện thoại “enquiry” của phần hành hưu bổng, gọi là “Superannuation Helpline”), bà khách nào đó ở đầu dây kia dộng ngay vào hai lỗ tai một tràng tiếng Anh chói lói: “Tao không muốn nói chuyện với mầy, mầy gọi người nào nói tiếng Anh tiếp chuyện với tao!”. Nó mới nghe mình xưng tên là biết ngay mình không phải dân Anh chính gốc, và chẳng cần biết ất giáp gì ráo, nó chẳng thèm nói chuyện với mình. Mầy không thèm nói chuyện với tao thì tao cũng không thèm nói chuyện với mầy, còn cả hàng chục người đang chờ tao giải quyết khó khăn trong điện thoại, hơi đâu mà lo đôi co với mầy. Thế là “rụp”, chuyển ngay cho supervisor “gỡ rối tơ lòng” giùm. Tụi supervisor biết tỏng mấy chuyện nầy nên chúng cũng chẳng “mind” chút nào. Giận thì có giận, nhưng nghĩ cho cùng nó cũng có quyền của nó, hơn nữa còn bao nhiêu người tử tế khác đang cần mình giúp đỡ. Thế là “đường ta ta cứ đi”, suốt ngày tiếp năm sáu chục, có khi cả trăm cú điện thoại, giải quyết được bao nhiêu trường hợp cho bao nhiêu người, cơn giận cũng từ đó mà theo “đường điện thoại” bay đi!
Cũng chuyện tiếp điện thoại. Nguyên tắc là khi nhấc điện thoại lên là phải chào, rồi xưng tên, xưng nơi làm việc. Đa số tên của người Việt mình người nước ngoài khó nhận ra ngay, phải đánh vần cho nó nghe. “Đi”, “Yêu”, “Ô”, “Em” (Duom). Nó hỏi lại: “What?” Lại phải đánh vần lại cho nó viết xuống rõ ràng, để sau nầy có gì nó còn kiện mình. Mỗi ngày trăm cú điện thoại, đánh vần riết mỏi miệng. Tức quá mới nói: “Mầy cứ gọi tao là David đi”. Chúng hỏi: “David hả, dễ quá, hello David!”. Thế là thành tên chính thức luôn, chứ tên cúng cơm cha mẹ đặt ra ai đổi làm chi! Thôi thì nhập gia tùy tục, nhập giang tùy khúc!
Có một giai thoại hơi thú vị khi còn làm job ngồi điện thoại tiếp dân, xin kể cho bà con nghe. Xin thề là chuyện có thật một trăm phần trăm. Số là một buổi sáng sớm nọ vừa vào sở làm, mới “log on” vào đường dây điện thoại “enquiry”, thì có một giọng nói con gái còn trẻ măng, khoảng mười lăm mười bảy gì đó, êm ả ngọt ngào thủ thỉ khe khẽ bên tai: “Excuse me, can you help me? I am pregnant!” Tạm dịch qua tiếng Việt hơi du dương chút ít cho nó có vẻ mặn mà: “Anh (không có chữ “yêu”) ơi, anh làm ơn giúp em với, em có bầu rồi!” Chèn đét ơi! Quý vị thử nghĩ coi, đi làm cho Sở Thuế bao nhiêu năm có bao giờ được huấn luyện để đối phó với mấy trường hợp nầy? Chuyện không phải chuyện của mình (dĩ nhiên là cái bầu của cô ta không phải của tôi rồi, vì tôi có biết cô ta là ai đâu? Đó là nói thiệt, chứ không phải sợ bà xã mà nói). Ừ, cái đó không phải của mình thì lo làm chi. Cúp máy cái rẹt là xong. Nhưng nghĩ lại, cũng tội nghiệp cho cô ta. Khôn ba năm, dại một giờ. Tuổi còn măng non, học không lo học, đi chơi nhông nhông ăn bậy ăn bạ mới dính bụng phình. Lỡ rồi, chắc không dám nói với cha mẹ đâu, còn cái anh chàng nào đó chắc đã quất ngựa truy phong mất rồi. Thôi thì “dù xây chín đợt phù đồ, không bằng làm phước cứu cho một người”. Tui không có cái dũng cảm đứng ra nhận giùm người nào đó (chuyện nầy nguy đa, chắc về nhà chén bát bể hết trơn, vả lại còn chưa biết cô ta tròn méo thể nào, mặt đẹp như mấy cô đào Hollywood hay giống Chung Vô Diệm lúc còn chưa có kỹ nghệ lột xác “cosmetic surgery”, thân thể giống mấy super model hay có ngần có ngấn?). Nói làm phước là tìm cách kiếm người khác giúp đỡ cô ta, bằng cách lật sổ điện thoại niên giám ra tìm mấy chỗ “welfare” hay mấy cái “family consultant” để chuyển cô ta qua đó, may ra họ có ý kiến hay giúp đỡ gì được chăng. Chứ còn mình lúc đó thi dĩ nhiên là vô phương! Thế mà khi tửng tửng đi khoe với cấp trên, tưởng được khen là “người tốt – good boy!” chẳng ngờ còn bị cấp trên rầy: “Đâu có phải chuyện mầy mà can thiệp vào (non of your business!), lỡ nó có làm sao thì mầy chịu trách nhiệm!”. Rõ dại!
Cũng lại cái vụ điện thoại Helpline. Sống lâu lên lão làng. Có một dạo được cấp trên cho coi một nhóm (team) mười mấy người tuyển vô ngồi tiếp điện thoại. Thế là lu bu nào huấn luyện luật lệ, nào chỉ bảo cách trả lời điện thoại cho họ. Lại còn phải làm các việc “floor walker” tạm dịch là “người đi nhông loanh quanh” để mà coi sóc họ làm ăn thể nào. Xứ đa chủng tộc, nên tuyển vào đủ thứ người, từ thím Sáu Phi Luật Tân, đến anh Bảy Ấn Độ, và dĩ nhiên có mấy trự “Aussie, Aussie, Aussie, Ôi, Ôi, Ôi”. Trong số đó có một cô backpacker người xứ Wales chính cống. Mình rất thích cái giọng tiếng Anh xứ Wales của cô ta, sao mà ngọt lịm! (nói lén mà nghe, cô ta dung nhan cũng khá mặn mòi, mà nghe đâu có trình độ đại học nữa!” Bữa đó đang coi mấy người kia thì cô nàng gọi lại, bảo có bà trong điện thoại complain và không muốn nói chuyện với cô ta, đòi nói chuyện với supervisor. Tôi mới nhấc điện thoại và hỏi bà ta tôi có thể giúp được gì? (What can I do for you?). Bà ta hỏi mầy có phải boss của con nhỏ đó không, tôi nói phải, bả nói sao mà mầy tuyển thứ người không biết nói tiếng Anh vào làm việc cho Sở Thuế, nó nói cái thứ tiếng Anh gì tao chả hiểu gì trơn ráo trọi! Tôi mới ngớ người ra, vì cô tiếp điện thoại là người Anh chính hiệu con nai vàng, mà bị nói là không biết nói tiếng Anh. Tôi bèn tìm lời giải thích cho bà biết là giọng cô ta có khác giọng Aussie mình chút đỉnh, chứ cô ta là Anh chính cống mà! Và rồi mới giải quyết vấn đề cho bà ta. Xong bà ta có vẻ khoái chí nói “Mầy nói tao hiểu hết trơn, còn cái con đó nó nói tao chẳng hiểu gì hết!” Thế mới biết “miệng kẻ sang có gang có thép”, có chút đỉnh chức vị nói gì ra chúng cũng cứ nghe rầm rầm! Kể lại cho cả bọn nghe chúng cười rầm lên, kể cả cái cô người Anh bị chê nói tiếng Anh không rành.
Tới cái chuyện kiểm tra thuế. Xứ văn minh, chính quyền chẳng có cái gì để dấu giếm dân chúng cả. Năm nay sẽ kiểm tra giới nào, năm tới sẽ chú trọng vào những loại khai báo nào để mà truy xét. Đăng lên báo, phổ biến trên radio, truyền hình. Cứ như là báo trước cho dân biết mà né tránh cho trót lọt. Cũng như cái vụ “speed camera ahead”. Xứ nầy là xứ văn minh, dân chủ, dân là trên hết, vì vậy muốn kiểm tra, muốn phạt, là phải nói trước, cho hay trước, để người dân lo tránh đừng phạm phải. Vì vậy ở Úc nầy muốn làm người tốt thì rất dễ, chứ muốn làm người xấu thì khó lắm. Cứ hàng ngày lo xem TV, nghe radio SBS hay đọc các báo Việt Ngữ là biết hết trơn hết trọi. Chả bù chính quyền ở mấy nước chậm tiến hủ lậu, cứ rình chờ dân chúng sơ hở là chộp ngay để ăn hối lộ!
Có lần đi kiểm tra thuế GST, gặp phải hai ông bự, một trong hai ông lúc đó là chủ tịch một hội tài xế lái taxi của tiểu bang. Làm việc một hồi, ông ta mới bảo: “Tao thấy mầy sao khác mấy người kia, mầy kiểm tra thuế mà mầy cứ cười cười, chả giống cái bà nọ hôm trước, mặt cứ đanh lại, nói chuyện gióng một, làm như muốn ăn tươi nuốt sống người ta”. Tôi mới bảo nó: “Tui đi kiểm tra là để kiểm tra, chứ có phải đi đánh lộn đâu mà mặt mày hầm hầm, mình vui vẻ với nhau, miễn là làm được việc thôi”. Thế là kiểm vẫn kiểm, thuế vẫn đánh, nhưng ai nấy đều vui lòng. Có bà chủ cơ sở nọ bảo: “Tao nhận được thơ mầy lo quá mất ăn mất ngủ mấy ngày đêm liền, nay gặp mầy sao thấy mầy nói chuyện vui vẻ, tự nhiên tao hết lo!” Cũng có lần gặp anh kế toán gia nọ, vừa bước vào phòng, mới kịp đưa cái thẻ ra chưa kịp chào hỏi, anh ta đã dùng “body language” đứng ngay lên, ra vẻ tức giận từ đời thuở nào, xổ ra ngay một tràng chửi rủa bất mãn đủ thứ, nào là luật gì mà đủ thứ luật (lúc đó mới cho ra GST), nào là không cho người ta có đủ thì giờ để làm việc, nào là cứ biết thúc bách mà chẳng có biện pháp nào giúp đỡ, vân vân và vân vân. Té ra anh ta công việc nhiều quá làm không xuể, mình tới để xem anh ta làm ăn ra sao đặng có cách giúp đỡ, anh ta lại tưởng mình muốn tới kiếm chuyện, lại phải giải thích con cà con kê một hồi anh ta mới vui vẻ trở lại. Té ra anh ta chẳng phải giận gì cá nhân mình, anh ta coi mình như cái thớt, con cá nó trơn trợt anh ta chém không được, nhè chém ngay mình chan chát! Mà ai cũng vậy, hễ giận mà có chỗ xả thì cứ xả ngay, chỉ tội cho cái thân tui lúc đó phải đứng ra hứng chịu búa rìu cho toàn bộ guồng máy công quyền. Nói cho cùng, công việc nào cũng là công việc, miễn là mình làm cho chu toàn, ai ghét rán chịu. Dân ở đây họ có câu: “I am doing my job” để biện minh cho việc họ làm, là họ chỉ làm theo bổn phận, chứ không phải họ ghét bỏ hay thù oán cá nhân gì. Mấy cái anh phú lít, mấy vị phạt đậu xe, rồi là mấy nhân viên thuế vụ. Ai nghe nói đến mấy cái nghề nầy không lắc đầu lè lưỡi thì cũng cao chạy xa bay. Dân Úc có câu: “Ở đời có hai thứ không tránh được: thứ nhất Thần Chết, thứ nhì Thuế Vụ”. Nghe mà ghê!
Anh David Ngô đang tiếp chuyện đồng hương qua SBS Radio
Đó là nói chuyện trước kia. Con bây giờ thì công việc làm có khác rồi. Hơn 8 năm nay đi giúp đồng hương tìm hiểu về thuế má, kể cũng vui. Nhớ hồi mới lên đài SBS để trả lời bà con hỏi về thuế vụ, mỗi lần vào trong studio là mỗi lần tim đập thình thịch như là đang vào phòng thi Tú Tài thuở xưa, không biết sẽ gặp đề thi nào, dễ hay khó, rủi gặp chỗ bí thì eo ôi, “anh rớt Tú Tài anh đi Trung Sĩ ” như chơi. Chẳng biết bà con gọi vào đài muốn hỏi gì, mà cũng chẳng biết có trả lời được không, mà hễ trả lời không được thì mất mặt bầu cua quá xá, nên chi run ơi là run. Lâu dần thét rồi cũng quen. May mà chẳng có cô nào người mình gọi vào hỏi : “Anh ơi, em có bầu rồi, anh tính làm sao!” thì chắc chết trăm phần trăm. Bà xã chuyến nào tui lên đài bả cũng ngồi nghe châm bẩm, mà còn thâu cát-sét lên nữa chứ! Cô nào đừng có giỡn chơi dại chết tui à nghen!
Làm công việc giúp đỡ người mình về các vấn đề thuế vụ có vui mà cũng có bực. Vui vì được tiếp xúc với người mình, được nghe, được nói tiếng nói của mình, vui vì giúp đỡ được cho người mình giải quyết các khó khăn. Nhưng cũng bực cái là người mình hay ỷ y, cứ để nước tới trôn mới nhảy. Ai đời thuế thì ba bốn năm chưa khai, nợ thì cứ để chồng chất bao nhiêu năm không trả, đến lúc nhận được cái bill mấy chục ngàn nợ mới tá hoả ra chạy đi kiếm cái anh chàng thuế vụ. Ảnh cũng đâu có bùa phép gì cho cam. Thứ nhứt là ảnh không được quyền khai thuế cho người khác, thứ hai là ảnh cũng đâu có trả nợ thuế được cho mình. Nhưng việc hướng dẫn đường lối thì sẵn sàng thôi. Ai cũng hỏi : “Văn phòng anh ở đâu, tôi tới khai thuế”. Vậy là phải thanh minh thanh nga nữa ! Bữa đó có hai vợ chồng bác nọ lớn tuổi đến văn phòng cộng đồng nhờ tìm giúp mớ tiền hưu cả chục năm nay lạc mất đâu đâu. Số là trước kia ông chồng có đi làm, được chủ trả tiền superannuation, rồi sau đó chuyển chỗ ở lung tung không báo với quỹ hưu bổng. Rồi công ty nọ khánh tận, đóng cửa cái rụp, quỹ hưu bổng do công ty đứng ra quản lý cũng dẹp luôn, tiền hưu bổng chuyển đi quỹ khác và kể như lạc chủ luôn dù tiền vẫn còn đó. Bác ấy hỏi mọi nơi bao nhiêu năm chẳng xong. Nghe nói có cái anh chàng thuế vụ tử tế, chịu khó giúp đỡ, mới lân la đến nhờ. Sau một hồi gọi chỗ nầy chỗ nọ tìm hỏi thăm, may thay tìm được ngay chốc mấy ngàn đồng đang được ký gởi tại một quỹ hồi hưu nọ. Nhìn hai bác mừng rỡ mà mình cũng cảm động muốn chảy nước mắt. Lại cũng một hôm mới đây đang làm việc tại lều trưng bày thông tin của Sở Thuế tại Hội Chợ Tết ở Warwich Farm. Có hai vợ chồng nọ tuổi cũng cỡ trung niên, dẫn cô con gái nhỏ chừng ba hay bốn tuổi đi dạo hội chợ ngang qua lều của Sở Thuế. Thấy cô bé mặc áo dài Việt Nam thật dịu dàng khả ái, bèn mới khen và lân la nói chuyện với ông bố. Anh vẻ người bình dân, nhưng qua vài câu trao đổi biết ngay anh là người trí thức, lại hay làm việc thiện. Chuyện vãn con cà con kê một hồi anh ta mới hỏi tên. Khi xưng tên ra thì thấy mặt anh ta có vẻ biến đổi. Chị vợ đứng kế bên mới nói : “Đó, anh lâu nay muốn gặp ảnh, nay thì anh đã gặp rồi đó, có gì muốn nói thì cứ nói đi cho thoả mãn !” Tôi tái mặt đứng chết trân. Trời xui đất khiến, không đúng lúc cũng chẳng đúng chỗ «wrong place, wrong time!», lại gặp oan gia gì rồi đây. Thôi chết tôi rồi, chắc phen nầy có chuyện lớn. Không biết mình có làm gì sai quấy với anh ta hồi nào không, thôi thì nhờ Phật Trời phù hộ cho tai qua nạn khỏi. Lúc đó ông chồng mới bảo tôi : “Thú thật với anh, tôi muốn gặp anh lâu lắm rồi”. Tôi run run đứng nghe anh nói tiếp. “Đó là kể từ ngày anh giúp tôi giải quyết cái vụ có người xài số thuế của tôi để làm ăn phi pháp. Chuyện anh giúp cho nay đã êm xuôi, vợ chồng tôi cũng đã trút được gánh lo. Còn việc tôi muốn gặp anh là để nói ra lời cảm ơn anh, thật tình mà nói, tôi không ngờ trên đời nầy lại còn có một người lễ phép, tử tế và tận tình như anh. Tôi phải gặp cho được anh để nói ra câu nầy mới hả dạ”. Lúc đó tôi hoàn hồn, mà cũng thật cảm động nữa. Ông boss tôi lúc đó đứng bên cạnh chứng kiến đầu đuôi, thế mà đến nay cũng chưa thấy tăng lương đồng nào!
Năm nay tôi cũng đã đến cái tuổi gọi là được quyền về hưu non. Nói về tuổi đời thì mong còn được sống lâu lâu để ngắm con ngắm cháu, nói về tuổi nghề thì cũng đã chín muồi. Ngẫm lại cuộc đời toàn là một chuỗi tình cờ. Tình cờ sinh ra, tình cờ lớn lên, tình cờ được sang Úc, tình cờ vào « làm » thuế vụ, tình cờ được làm công việc giúp đỡ đồng hương. Thôi thì cứ hãy làm hết sức mình, giúp được ai thì giúp, miễn người vui mình vui là được rồi. Chẳng thèm bon chen chi nữa cho nó mệt thân. Que sera sera. Biết đâu ngày mai đại hồng thủy hay trái đất nổ tung. Dù sao cũng phải tạm chấm hết bài nầy cái đã, ra sao thì ra./-
David Ngô
(Úc châu)